Sunday, August 31, 2014



Kính thưa quý vị độc giả!

Cảm ơn quý vị độc giả trong thời gian qua đã dành nhiều thời gian  cho những bài viết của: Thiendinh-hhn.blogspot.com!

Có một quý độc giả tên là Phạm M.T (vì nhóm HHN chưa hỏi ý kiến của anh, nên chỉ xin viết tắt tên của độc giả) đã viết thư cho nhóm HHN và trao đổi với nội dung như sau:

Mình có thiền một thời gian,  mình thấy một hình ảnh rất kỳ lạ! Mình vẽ lại, đưa lên mạng cho người ta coi. Người ta bảo thấy ký hiệu này không được thiền nữa.  Không biết mình đã thiền sai cái gì, mong bạn giúp đỡ! 

 Và đây là hình ảnh mà anh Phạm M. T đã vẽ lại và gửi cho nhóm HHN:





Anh Phạm M.T thân mến!

Nhóm HHN đã có những câu trả lời cho anh. Và chủ đề này của anh sẽ được trả lời trong những bài viết tiếp theo của thiendinh-hhn.blogspot.com.

Xin cảm ơn anh! Và chúc anh tinh tấn tu tập với niềm vui, sự hạnh phúc và an lạc!

Hẹn gặp lại anh ở những bài viết sau.

HHN

Saturday, August 30, 2014



Thiền Định có lẽ là hạ tầng cơ sở thực nghiệm
             của 6 Trường Phái Ấn Độ UPANISAD.


Truyền Thống Phật Giáo mà mất đi Thiền Định đồng nghĩa với việc mất đi Linh Hồn, mất đi Sức Sống.

Đoàn bảo tiêu Xuyên Vân Kiếm Pháp ra khỏi bìa rừng và tiến vào một thị trấn nhỏ. Không khí nhộn nhịp hẳn lên với dãy hàng quán buôn bán ven đường. Trái với thói quen thường ngày là hay cười nói, Tam Tiểu Thư đi một cách lầm lũi im lặng bên cạnh ông Tổng Quản.

Tam Tiểu Thư:

Ông Tổng Quản à! Tôi đang suy nghĩ đây ông. Như ông biết đấy, nếu tính theo cuộc sống ngoài đời thì tôi cũng hơi bị được nha ông. Văn võ song toàn, đâu có thua ai, có khi còn hơn người là đằng khác. Tuy nhiên khi lao vô Con Mắt Thứ Ba này, tôi thấy nhiều thứ khó nói quá!

Ông Tổng Quản:

Có gì thì cô cứ nói, có gì đâu mà nói không được? Cô yên tâm, tôi có cuốn Tạp Thư đa năng, đa hiệu. Khó cách mấy cũng có câu trả lời, thậm chí còn hơn cả Google nữa.

Tam Tiểu Thư:

Việc tập Thiền Định để mở Đệ Tam Nhãn, tôi thấy mình có lẽ … hơi bị đuối rồi. Tôi thấy nó khó quá, có cái gì đó không ổn! Cảm giác của tôi là hình như tôi thiếu căn bản về Thiền Định. Nó giống như việc học tắt. Hiểu thì tôi có thể hiểu được một phần nào đó, nhưng lúc thực hành thì không làm được. Đơn giản là tôi thiếu căn bản, thiếu những kiến thức cần thiết tối thiểu cho một người hành Thiền.

Ông Tổng Quản:

Cô nói không sai, phải không quý độc giả? Ðể minh họa, chúng ta có thể so sánh việc mở Đệ Tam Nhãn với việc đi học văn hóa tại nhà trường. Học Tiểu học và Trung học tương đương với việc học Lý thuyết Kỹ thuật thực hành Thiền Định. Học Cử Nhân là khái niệm về Đệ Tam Nhãn. Tiến sĩ Đệ Tam Cấp là học Cách Mở Nhãn. Tiến sĩ Quốc Gia là hoàn thiện việc Mở Nhãn và phân biệt các loại Nhãn khác nhau. Cuốn Tạp Thư nó so sánh như vậy đó. Nếu Cô không chê lối so sánh nói trên là “Ðầu Ngô mình Sở”, thì tôi có một cách để Cô dễ tiếp thu không cảm thấy khó quá.

Tam Tiểu Thư:

Vậy thì ông thử nói cách của ông đi. Nó là thế nào?

Ông Tổng Quản:

À! Cách của tôi đơn giản thôi! Cô học việc mở Đệ Tam Nhãn chậm lại, từ từ thôi … Song song với chuyện đó, cô học bổ túc về Thiền Định, đại khái giống như người ta bổ túc văn hóa, để nâng cấp hiểu biết về Lý Thuyết và Kỹ Thuật Thiền Định … Khi nào hai bộ môn này gặp nhau, ý tôi nói là Mở Nhãn và Thiền Định gặp nhau, thì lúc đó cô lại tiếp tục tập luyện cách mở Đệ Tam Nhãn một cách bình thường.

Tam Tiểu Thư:

Ok! … Ông có lý đó. Ông thật là người dễ thương nhất trên đời đó. Lúc nào cũng tìm ra cách gỡ rối cho tôi mỗi khi tôi gặp khó khăn. Nếu chuyện mà cứ như thế này, thì ông phải ráng sống lâu hơn tôi nhé. Ông phải ở cạnh tôi cả đời cho đến khi tôi chết. Lâu nay tôi lúng túng không biết xử lý ra sao. Ban đầu tôi chán nghe những lý thuyết dài dòng của ông lắm. Nhưng càng lúc tôi càng hiểu ra là muốn mở được Đệ Tam Nhãn phải có căn bản vững chắc về Thiền Định. Cả lý thuyết cũng như thực hành. Thiếu bộ môn này, mình không thể tiến lên được. Đó là một cuộc chạy đua mà tôi cầm chắc phần thua trong tay, do đôi chân bị khập khiễng.

Ông Tổng Quản:

Ðiều Cô vừa nói rất hay và cần thiết. Vì chính Cô phải hiểu được như vậy thì cô mới thấy giá trị và ý nghĩa của việc học tập và thực hành Thiền Định. Những gì hôm nay cô mới phát hiện ra, nó đã từng xảy ra cách đây nhiều ngàn năm, từ 2.500 năm đến 4.000 năm về trước. Theo cuốn Tạp Thư, thì dường như tất cả các Trường Phái lớn sau thời gian Upanisad, đều xây dựng trên cơ sở thực nghiệm là Thiền Định. Thí dụ như: Yoga, Phật Giáo, Số luận …

Tam Tiểu Thư:

Tôi thì rất có cảm tình với Phật Giáo. Ông nói một chút về Thiền Định Phật Giáo đi ông.

Ông Tổng Quản:

Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả đều biết rất rõ tiến trình xây dựng nên Trường Phái Phật Giáo. Ðể minh họa bức tranh cho thêm phần rõ nét, xin phép được nhắc lại những điều mà Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả đều biết. Sakya Muni là một con người bình thường, như bạn và tôi.

Ngài đã quan sát các hiện tượng tự nhiên khách quan:

Sanh > Lão > Bệnh > Tử. Từ những quan sát này, Ngài tìm ra mối quan hệ của các hiện tượng tự nhiên và sau đó phát biểu thành định luật. Như thế chưa đủ, Ngài còn sử dụng một công cụ phổ thông lúc bấy giờ là Thiền Định để tìm hiểu sự thật về bản chất của vạn vật. Chính nhờ Thiền Định, Sakya Muni đã phát minh ra phát biểu để đời bất tử:

"Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Não". Có Trường Phái khác ghi lại là: 
"Vô Thường, Hữu Ngã, Khổ Não". Những hiểu biết về cấu tạo Tâm Sắc của các Thực Thể; diễn tiến của Luồng Tâm Thức; các Cảnh giới … vẫn mang tính chất nhất quán. Dù chúng ta có nghĩ đây là một huyền thoại, nhưng rõ ràng là Trường Phái Phật Giáo đã được xây dựng trên kinh nghiệm thực tế, hoàn toàn không xây dựng trên kinh nghiệm lý thuyết.

Thiền Định có thể bắt nguồn ở rất nhiều nơi trên thế giới. Nhưng Thiền Định tại Ấn Ðộ và sau này tại Tây Tạng, vẫn được lưu truyền đến ngày hôm nay và lan rộng trên toàn thế giới. Người Ấn Ðộ dường như có truyền thống Trầm Tư, Mặc Tưởng. Có nhiều tác giả cho rằng đó là bản tính vốn có, tập quán tự nhiên của người Ấn Ðộ. Như mọi người đều biết, lịch sử Ấn Ðộ không được ghi lại bằng chữ viết. Chính điều này làm cho việc khảo cứu cực kỳ khó khăn. Người ta tạm chấp nhận việc tu tập tại Ấn Ðộ có thể chia ra làm 3 thời kỳ:

1. Giai đoạn Veda có nghĩa là Minh Trí (Có 4 loại Veda):

    Rigveda / Yajarveda / Samaveda / Atharaveda.

2
. Giai đoạn Branmana:

Chính ở giai đoạn này đạo Bà La Môn ra đời. Người ta được biết đến chủ nghĩa "Veda Thiên Khải", "Tế Tự Vạn Năng", "Bà La Môn Chí Thượng". Ở cuối tài liệu Branmana có phần Aranyakah để đọc tụng và trầm tư, mặc tưởng mới hiểu được. Tu sĩ phải vào trong rừng tìm nơi vắng vẻ, thanh tịnh để đọc tụng và trầm tư. Người ta cho là, bộ môn Thiền Định đã ra đời tại Ấn Ðộ nói riêng, và của loài người nói chung.

3. Giai đoạn Upanisad:

Có rất nhiều tài liệu Upanisad. Ít nhất cũng là 200 bản, khác hẳn nhau, chống đối nhau. Do đó việc khảo cứu vô cùng khó khăn. Nhưng cũng chính tại giai đoạn này, bộ môn Thiền Định đã thực sự hình thành mặc dù chưa rõ nét. Vẫn dựa trên tư tưởng cơ bản của Kinh Veda, 6 Trường Phái điển hình của Ấn Ðộ ra đời:

   a. Phái Mimansa Tổ: Jaimini.
   b. Phái Vadanta Tổ: Badarayana.
   c. Phái Nyaya Tổ: Gautama (Phái chính luận).
   d. Phái Vaisesika Tổ: Kanada (Phái thắng luận).
   e. Phái Samknya Tổ: Kapila (Phái số luận).
   f. Phái Yoga Tổ: Patanjali (Phái Du già).
 


Tuy bắt nguồn từ Veda, nhưng những Trường Phái kể trên dần dần tự hình thành hệ thống tư tưởng riêng của mình. Tuy nhiên, các Trường Phái nói chung vẫn dựa trên thực nghiệm Thiền Định. Chính vì lý do này, bộ môn Thiền Định do phải cạnh tranh nhau, đã sản sinh ra những Kỹ Thuật cùng những Lý Thuyết ngày một tinh vi hơn. Chúng ta có thể tìm thấy hệ quả này của Kỹ Thuật Thiền Định Phật Giáo và Raja Yoga. 

Tam Tiểu Thư:

Sao nãy giờ nghe Ông nói về Thiền Định mà không nghe Ông đề cập đến Trung Quốc vậy. Hồi đó Thầy của tôi khuyên tôi nên học Hán văn để đọc sách dạy Thiền của Trung Quốc đó.

Ông Tổng Quản:

Xã hội Trung Quốc có những phong tục tập quán mang màu sắc đặc thù của Trung Quốc là: Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ … Tiến trình phấn đấu của đời người theo cách này cho thấy một Nhân Sinh Quan mang nặng chủ nghĩa hướng ngoại, với mục đích dường như quá tham vọng. Nói một cách bình dân là nếu ai cũng muốn làm Vương, làm Tướng; coi chuyện này là mục đích của đời người, thì lấy ai làm Dân, lấy ai làm Lính. Người ta có thể quan ngại rằng, với mục đích của loại Nhân Sinh Quan này, thì ở góc cạnh tích cực, nó làm cho con người hun đúc ý chí cạnh tranh, và làm cho xã hội tiến bộ. Nhưng mặt khác thì có lẽ rất dễ gây ra chiến tranh. Cô có thấy phim ảnh của Trung Quốc luôn luôn nói tới chủ nghĩa “Ðạt được mục đích, bất chấp thủ đoạn” không? Thật vậy, tinh thần nói trên cùng với phong tục tập quán của người Trung Quốc, đã được thể hiện qua cái được gọi Trường Phái Phật Giáo Trung Quốc. Có thể kể những thí dụ như: Tức Sắc Tông, Thiền Ðốn Ngộ … Việc này chúng ta sẽ còn có cơ hội quay lại tìm hiểu sau. 

Lúc bấy giờ xã hội Ấn Ðộ là vào thời Upanisad lại có một phong tục tập quán khác hẳn với truyền thống của Trung Quốc. Đó là một Nhân Sinh Quan hướng nội, một Vũ Trụ Quan tìm cách sát nhập với Đấng vĩnh hằng. Ðời người Ấn độ chia ra làm 4 giai đoạn: Khi còn thơ ấu thì sống trong gia đình với cha mẹ. Ðến thời thiếu niên thì theo học tại các Cơ sở Tôn giáo. Lúc trưởng thành thì lập gia đình. Sau khi hoàn tất nghĩa vụ với xã hội, họ vào rừng tu Thiền Định, tìm nơi vắng vẻ tu hành cho đến chết.

Hai Trường Phái của Ấn Ðộ còn lưu truyền đến ngày hôm nay là Phật Giáo và Yoga. Cả hai Trường Phái này, như quý vị đều biết - một phần là dựa trên cơ sở của kinh Veda; nhưng phần quan trọng nhất  lại dựa trên cơ sở là những kết quả thực tiễn, mà họ đã thu hoạch được bằng Kỹ Thuật Thiền Định.

Kinh Yoga gồm có 4 phần cơ bản:

1. Tam Muội phẩm (Thiền Định) (Samadhi-pàda):
Phân loại và giải thích bản chất của Tam-Muội.
2. Phương pháp phẩm (Samdhana-pàda):
Thuyết minh phương pháp tu tập Thiền Định.
3. Thần thông phẩm (Vibhiti-pàda):
Trình bày các chủng loại và nguyên lý của thần thông.
4. Ðộc tồn phẩm (Karralya-pàda):
Thuyết minh cách tiêu trừ sự trói buộc của Thần Ngã.

Tư tưởng cơ bản của tài liệu này là làm sao để tư tưởng đứng lại, gọi là "Chỉ", là "Ðịnh Tâm". Cuối cùng là sự sát nhập, hợp nhất với Vị Thần tối cao.

Ðể thực hiện việc tu hành, tu sĩ phải đi qua 8 bước cơ bản:

1. Tịnh giới: gồm có: Không sát sinh, không vọng tưởng, không trộm cắp, không tà dâm, không tham lam.
2. Dự bị tu tập: Tịnh thân, tịnh tâm, khổ hạnh.
3. Luyện tập các vị thế để tu Thiền Định: Tập các vị thế đặc biệt.
4. Tập luyện hô hấp: Tập luyện hơi thở.
5. Làm chủ các giác quan: Thực tế là bế lục căn như Phật Giáo.
6. Chú tâm vào một đối tượng duy nhất.
7. Liên tục chú tâm vào một đối tượng duy nhất.
8. Nhập định.

Nhìn bức tranh nói chung kể trên, thì các trường phái như: Số luận, Phật giáo, Yoga … đều dựa vào kết quả của thực nghiệm Thiền Định.

Do đó, Phật Giáo dù là Tiểu Thừa hay Ðại Thừa, nếu mất đi hoặc thiếu vắng bộ môn Thiền Định - là chỗ dựa vững chắc, thì Phật Giáo đã mất đi luồng sinh khí của mình.

Tam Tiểu Thư:

Tôi thấy có rất nhiều Cơ sở Tôn giáo của Phật Giáo, mà họ có tu Thiền Định bao giờ đâu (hay là ít nhất theo tôi được biết, thì họ không hề tu Thiền Định). Tôi thường thấy họ làm các thủ tục tế lễ, nghi lễ cúng bái … thậm chí còn mang tượng Phật ra để tắm nữa đó.

Ông Tổng Quản:

Như cô thấy đó, rất nhiều Trường Phái Phật Giáo của Việt Nam ngày hôm nay đã xuất phát từ Phật Giáo của Trung Quốc. Sự thực những Trường Phái này là do người Trung Quốc sáng tác ra. Lấy thí dụ như: 

* Tịnh Ðộ Tông: Trường Phái này còn có tên là Liên Tông. Họ chủ trương Niệm Phật để khi chết sẽ về "Tịnh Thổ". Tuệ Viễn là người đã sáng lập ra Trường Phái này vào đời Ðường. Tuệ Viễn tập họp được một số người và thành lập ra một tổ chức Tôn Giáo. Họ chủ trương thực hành Niệm Phật Tam-Muội có nghĩa là Trì Danh Niệm Phật. Lúc đầu, còn có người chủ trương Thiền Tịnh Song Tu. Nhưng sau này, không còn ai nhắc tới nữa, có lẽ chuyện Song Tu chỉ còn là một kỷ niệm của dĩ vãng.

Tịnh độ có 3 bộ Kinh: A Di Ðà Kinh / Vô Lượng Thọ Kinh / Quán Vô Lượng Thọ Kinh.

1 bộ Luận: Vãng Sinh Luận.

Tịnh Ðộ Tông được phát minh ra tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ 4, du nhập vào Việt Nam thế kỷ thứ 6.


* Trường Phái Tức Sắc Tông: Đây cũng là một Trường Phái Phật Giáo của Trung Quốc. Học phái này cho rằng: "Tính của sắc là không tự có sắc. Sắc không tự có nên tuy có Sắc mà là Không, cho nên bảo Sắc tức là Không, Sắc lại khác Không". Người Việt Nam nói chung, không kể là Phật Tử, dường như ai cũng biết vài câu kinh Bát Nhã: "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Đây chính xác là câu kinh của Không Tông Bát Nhã.

* Thiền Tông Trung Quốc:
Trường Phái này đề xướng pháp môn "Ðốn Ngộ", có nghĩa là Giác Ngộ ngay tức thì, với chủ trương "Truyền giáo pháp ngoài kinh điển, không có văn tự chữ nghĩa, trực tiếp vào Tâm con người, kiến Tánh thành Phật".

Ðốn Ngộ thành Phật là tư tưởng căn bản của Thiền Tông Đàn Kinh. "Không tu tức là người thường, khởi lên một Niệm Tu là bằng Pháp Thân Phật". Câu nói nổi tiếng mà chắc ai cũng biết:"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm", bỏ tất cả các hình tướng bên ngoài.

* Thiên Thai Tông: Pháp môn này dựa trên tài liệu rất phổ thông tại Việt Nam gọi là kinh Pháp Hoa.

Còn rất nhiều Trường Phái khác của Trung Quốc mà trong khuôn khổ nhỏ bé của tài liệu này, chúng ta không thể kể hết được. Nhưng bất cứ ai cũng có thể đưa ra nhận xét như sau: dường như Phật Giáo ở Việt Nam là một "Melting Pot". Nó pha trộn quá nhiều luồng tư tưởng của các Trường Phái Trung Quốc, đến nỗi một người tu tập bình thường không còn biết mình thuộc về Trường Phái nào. Cái khó khăn cho người tu Thiền Định là không biết chọn con đường nào để đi. Thật vậy, các tài liệu pha trộn quá nhiều, nên không biết đâu là sự thật. Có Trường Phái thì dùng gậy gộc để đánh đệ tử, có Trường Phái thì lầm lì chẳng nói gì. Nhưng ai cũng cho là mình đúng. Do đó, một người bình thường bước vào con đường Tu Đạo, bối rối chẳng biết hướng nào mà đi. Đó chỉ là những điều nói riêng của Trường Phái Phật Giáo. Thực tế, nếu chúng ta gặp ai đó mặc bộ quần áo của người Tu. Nếu được hỏi về Phật giáo và phương pháp tu hành, họ có thể trả lời theo rất nhiều cách khác nhau; lấy cơ sở là dựa trên các tài liệu gọi là Kinh sách mà người ta cho là chính quy.

Như phần đầu chúng ta đã biết, những Trường Phái lớn tại Ấn Ðộ đều xuất phát từ cơ sở là kinh nghiệm thực tế, có được do kết quả của Thiền Định. Do đó, dù cách trình bày có khác nhau, nhưng Kỹ Thuật Thiền Định, về cơ bản rất giống nhau. Trái lại, căn cứ vào các tài liệu, thì các Trường Phái tại Trung Quốc lại vô cùng đa dạng và mang màu sắc đặc trưng của Trung Quốc. Dường như nó xuất phát từ những cuộc tranh luận, từ những lý thuyết, có lẽ không quá đáng nếu gọi là “không tưởng”. Nói đúng hơn là, không thể thực hiện được trên thực tế. Bất cứ ai từng tu Thiền Định cả đời mình, thì sẽ phân vân không biết mình mơ hay tỉnh, hay là mình căn cơ quá đần độn khi đọc câu "Tiền Niệm Mê tức Phàm, hậu Niệm Ngộ tức Phật". Thật vậy, ai cũng cảm thấy đau lòng khi thấy rằng mình bỏ cả một cuộc đời ra để Tu, mà chẳng Nhập Định được, chẳng biết mùi vị của Thiền Định là gì. Làm sao dám nghĩ tới chuyện thành Phật? Mà nay chỉ một giây trước là Phàm, và một giây sau lại thành Phật.

Những tư tưởng tương tự như những lời phát biểu nói trên, được người ta lập đi lập lại khắp nơi với đầy vẻ kỳ bí và hứng thú. Phải chăng đây là Chân Lý hay là Ngụy Chân Lý? Thực tế, Đệ Tam Nhãn cũng như một số khả năng khác là hệ quả của Thiền Định. Nhưng ít nhất đến ngày hôm nay, chúng ta không được biết một vị nào, tập luyện theo các Trường Phái nói trên, lại đạt được những khả năng khác thường. Ngược lại, những tu sĩ vô danh, nghèo nàn, sống độc cư và thường không tiếp xúc với ai cả ở Tây Tạng, thì lại được người ta biết đến với những khả năng khác thường. Họ cũng tu Thiền Định, sử dụng Đàn Pháp làm Đối Tượng để Quán Tưởng. Họ không có những phát biểu lớn lao, nhưng người ta phải tìm tới vì những khả năng khác thường không thể phủ nhận được. Ngay cả các phòng khoa học để khảo cứu về khả năng của con người, họ cũng hay mời các tu sĩ Ấn Ðộ, các Lạt Ma Tây Tạng tới để trao đổi và tìm hiểu. Những vị này họ thường tịnh khẩu.

Tam Tiểu Thư:


Tôi đã hiểu những điều ông nói. Ông đã vẽ cho tôi một bức tranh tổng quát về việc tu Thiền Định từ Cổ chí Kim, trên khắp thế giới. Cái quan trọng nhất là ông phải giúp tôi chọn Trường Phái nào mang tính chất thực tế và hữu hiệu. Thí dụ như: Trường Phái của các Lạt Ma Tây Tạng, các tu sĩ Ấn Ðộ …

Trong kỳ tới, mong ông sẽ bày cho tôi cách tập luyện thực tế. Có lẽ tôi chọn lối tu Thiền Định của Thiền Định Tiểu Thừa Phật Giáo. Nó chậm nhưng chắc ăn, ai cũng làm được, dễ thành công, đơn giản. Chính bản thân Ngài Sakya Muni thuở xưa cũng sử dụng phương pháp này mà đã giác ngộ thành Phật. Nếu tôi nương theo phương pháp của Sakya Muni, của các Lạt Ma Tây Tạng, biết đâu cũng có ngày thành Phật! không còn phải làm bảo tiêu nữa. Ông Tổng Quản làm ơn xem trong Tạp Thư đi, coi tôi có số tu chứng đắc không ông nhé …

(còn tiếp)


Friday, August 22, 2014


Giả thuyết về Đệ Tam Nhãn của Định Dục Giới



Trời đã tối, càng về khuya càng lạnh. Trăng đã lên quá đỉnh đầu. Ngàn sao lấp lánh. Dưới ánh nến lung linh trong góc một Trà Quán bên đường, Tam Tiểu Thư và Ông Tổng Quản đang say sưa “Đàm Đạo” ...

Tam Tiểu Thư:

Tôi từ nhỏ đã sống với ông. Ông nói gì tôi cũng tin và chẳng biết từ bao giờ chuyện tin ông đã thành thói quen của tôi rồi.

Khi ông bảo tôi tập Thiền Định để mở Đệ Tam Nhãn, tôi cũng làm theo ngay. Ông từng nói rằng nếu mình mở được Đệ Tam Nhãn, thì mình sẽ có những kiến thức và sự hiểu biết mà người ta thường gọi là Xuất thế gian; biết được quá khứ, vị lai. Thậm chí, hiểu biết được Con Người; biết được những Cảnh giới mà mình chưa hề đi đến bao giờ. Nói đúng hơn, là biết về những nơi mà con người bình thường không có cách gì để biết được hoặc đi đến được. Thật vậy, dù có được cấp hộ chiếu để đi đến cảnh Định Dục Giới thì cũng chẳng biết mua vé máy bay ở đâu và thực sự không bao giờ có chuyến bay nào đi được đến đó. Thật là thú vị nếu mình ngồi yên tại chỗ, nhắm mắt lại mà có thể du lịch khắp nơi, khắp chốn; lại còn đến được cả những nơi người bình thường không đến được nữa chứ. Tôi tò mò về tam giác Bermuda. Ông có biết tam giác Bermuda không? Tôi nghe nói ở tam giác này có những chiều không gian lạ. Nếu thật vậy thì người bình thường nào mà dám đi vào khu vực này. Có những phi công đã từng kể, máy bay của họ chỉ có khả năng bay tối đa là 350 km/giờ. Thế rồi bỗng nhiên họ lọt vào vòng xoáy. Họ đã đến một nơi mà nếu tính theo thời gian, thì máy bay của họ đã vượt qua vận tốc 3.000km/giờ. Ðể giải thích hiện tượng này, có người đã cho rằng chiếc máy bay nói trên đã chuyển qua một chiều không gian khác. Ông cũng hay nói các chiều Không gian của Thiền Định. Nó giống vậy không ông?

Bộ môn Sinh lý học của Y khoa nói rằng: Khi đứng trước các cảnh tượng bất ngờ gây mất tinh thần, sợ hãi, hoảng hốt … thì cơ thể con người sẽ tiết ra hóa chất Noradrenalin. Hóa chất này làm cho con người trở nên hung bạo hơn, liều lĩnh hơn, phiêu lưu hơn, can đảm hơn. Do đó, có người cho rằng hóa chất này cũng được tiết ra trong cơ thể của những người tu Thiền Định đó ông.

Ông Tổng Quản:

Trước nhất, cám ơn Cô đã tin vào tôi, chịu khó thực hành Thiền Định để đưa đến việc mở Đệ Tam Nhãn.

Những nghi vấn mà cô nêu ra ở trên rất là hợp lý. Nếu nói như cô, thì những ai hiểu biết về Sinh lý học, Vật lý học sẽ dễ dàng mở Con Mắt Thứ Ba. Nhưng trên thực tế, thì rõ ràng rằng không phải những người Tu Thiền Định thành công đều là những nhà Vật lý, Sinh học … Mà cho dù họ đúng là các nhà Vật lý hay Sinh học và chịu khó tu Thiền Định, thì cũng chưa chắc gì mở được Đệ Tam Nhãn. Lịch sử của Đệ Tam Nhãn đâu có ghi tên nhà Vật lý hay Sinh học nào đâu. Dường như việc mở Đệ Tam Nhãn, đòi hỏi rất nhiều yếu tố ngoài chuyện hóa chất như cô mới đề cập.

Tam Tiểu Thư:

Gì mà rắc rối vậy chứ? Ông nói thế thì đúng là bó tay. Ông không biết làm sao, mà lại đi bày cho tôi để mở Đệ Tam Nhãn, làm cho cuộc đời thêm mỏi mệt, thêm phức tạp. Đúng là “Lợi bất cập hại”. Thời gian đó, thay vì để cho tôi xem ti vi còn sướng hơn. Tôi thích xem chương trình Bước Nhảy Hoàn Vũ, Sao Mai Ðiểm Hẹn, nhất là Việt Nam Idol đó ông. Ngoài ra còn nhiều thú vui khác nữa. Nghe lời ông, bây giờ lại ngồi một mình ở trong phòng, bế lục căn, nhắm mắt, ngồi bất động tu thiền định … tôi thấy vô ích quá, tiêu phí cả một tuổi thanh xuân, ông thấy tôi nói có đúng không? Người ta nói đời là bể khổ, nhưng riêng tôi thì thấy đời có nhiều niềm vui mà ...

Ông Tổng Quản (cười dịu dàng):

Tam Tiểu Thư, cô hãy bình tĩnh nhé. Đã sanh ra trong kiếp người, thì cuộc đời mấy ai tránh khỏi tật bệnh, chết, già nua, nghèo, đói, thất học, sanh xuất cao, tử xuất cao, chiến tranh, thiên tai. Bên cạnh đó còn các loại phiền não, các loại ma nội tâm … Đó là cái khổ triền miên của con người ở bất cứ thời đại nào.

Ðệ Tam Nhãn không phải chỉ đơn giản là một công cụ để biết cái này cái kia, để thỏa mãn tò mò, để thỏa mãn lòng tự ái hay để che giấu mặc cảm tự ti. Nó là một công cụ giống như một cái đèn cực sáng - giúp xóa tan bóng tối của sự ngu dốt, làm tan đi ảo vọng của cuộc đời và mang lại sự hiểu biết chân chánh; là ý thức được tất cả mọi hiện tượng không có gì là bền vững, vạn vật luôn luôn biến đổi. Tất cả những điều này sẽ giúp đưa con người thoát ra khỏi vòng thập nhị nhân duyên của luân hồi sanh tử.

Tam Tiểu Thư:

Ông Tổng Quản, Ông trở thành Tu sĩ từ hồi nào vậy? Ông làm tôi kinh ngạc quá! Từ ngữ mà ông sử dụng mang màu sắc Tôn giáo, có lẽ Phật Giáo thì phải, à nó cũng giống như Ấn Độ giáo nữa. Lúc trước ông có học một trường Tôn giáo nào không vậy ông?

Ông Tổng Quản: 

Tam Tiểu Thư này, khoa học hiện đại, dù có hiện đại cách mấy cũng tự mình tạo ra hai rào cản. Hai rào cản này có lẽ đã hình thành cùng lúc với sự xuất hiện của con người từ thuở ban sơ, bình minh của lịch sử.

1. Chúng ta tự giam mình trong không gian ba chiều. Con người cũng biết là có những chiều không gian khác. Nhưng dù biết không gian có nhiều chiều mà lại không sử dụng được, thì biết cũng như không. Có lẽ điều tệ hại nhất là chúng ta còn tự quy ước rằng các Chiều không gian vuông góc với nhau. Người ta cố công tìm cách giải thích hiện tượng này và còn đổ lỗi đó là do cấu tạo Sinh học của bộ phận Tai trong và Não của con người.

2. Chúng ta tiếp thu thế giới tự nhiên qua quy luật Tư Duy Hình Thức. Người ta định nghĩa nó là chiếc cầu nối giữa Chủ Thể là: Con Người, và Đối Tượng là: Thế giới Tự nhiên Khách quan. Bốn Quy Luật Tư Duy gồm có:

   - Quy luật bài chung.
   - Quy luật đồng nhất.
   - Quy luật lý do đầy đủ.
   - Quy luật cấm mâu thuẫn.


Nếu chúng ta quan sát kỹ, thì hai trở ngại nói trên tương ứng với Thiền Vô Sắc. Hai rào cản này chính là đối thủ trực diện của:

   - Không Vô Biên Xứ.
   - Thức Vô Biên Xứ.


Vấn đề này đã được bộ môn Thiền Định giải quyết từ lâu, có lẽ từ 2.000 đến 3.000 năm về trước. Thật vậy, Thiền Vô Sắc đã có từ thời gian trước thời của Sakya Muni. Bản thân Sakya Muni cũng đã theo học Thiền Vô Sắc của những bậc Đạo sư đi trước. Cách tu Thiền Vô Sắc bao gồm Đối Tượng, tiến trình Kỹ Thuật, được trình bày một cách vô cùng kỹ lưỡng trong một số bộ Vi Diệu Pháp, Trung Bộ Kinh. Hiện nay, những tác phẩm này đã được thuyết minh bởi một số tác giả người Ðức, Anh, Pháp, Trung Quốc.

Các Khoa học gia cũng có đưa các giả thuyết về các vấn đề này. Nó thuộc lãnh vực của Vật Lý Lý Thuyết hiện đại, nhưng cũng chỉ là Lý thuyết mà thôi hay đúng hơn phải gọi là Giả thuyết; thế nhưng trên thực tế cũng chẳng ứng dụng vào được việc gì.

Có lẽ cái đáng sợ nhất trong cuộc sống là “Mình không biết cái điều mình không biết”.

Tam Tiểu Thư:

 Ông Tổng Quản, tôi thấy ông đổi màu như một con "Tắc Kè". Ông có thể nói lúc thì giống như một tu sĩ thứ thiệt, lúc thì biến thành nhà hùng biện, nhà vật lý lý thuyết. Nếu ông cho rằng các khoa học gia Tây phương bó tay về vấn đề này, vậy thì khoa học Ðông phương có thể giải quyết vấn đề này được không? Họ giải quyết bắt đầu từ đâu? Bằng cách nào?

Ông Tổng Quản:

Thì tôi đã nói với Tam Tiểu Thư nhiều lần rồi đó. Kỹ Thuật Thiền Định và việc mở Đệ Tam Nhãn, chính là chiếc chìa khóa cho vấn đề này.

Nhờ vào Kỹ Thuật Thiền Định và Đệ Tam Nhãn, một người bình thường đã tự mình lột xác, biến mình thành một Thực Thể khác, tự thay đổi cấu tạo Tinh thần cũng như Vật chất. Nói theo từ chuyên môn là thay đổi Tâm Sắc.

Có một Trường Phái Vi Diệu Pháp khác ngoài Trường Phái kinh điển (người ta cho rằng Trường Phái này đã có từ thuở Sakya Muni) đã phá vỡ quan điểm bảo thủ là Vô Ngã. Họ đưa ra Thuyết Nhân Thể (Pudgala). Theo thuyết này, thì các Thực Thể có một Linh hồn, Linh hồn này bất diệt trường tồn, tồn tại từ kiếp này qua kiếp khác. Tu Thiền Định có nghĩa là làm tăng hay giảm số lượng Tâm và Sắc.

Tam Tiểu Thư:

Tôi vẫn chưa hiểu nữa. Thay đổi Tâm và Sắc chính xác liên quan đến chuyện xuất hiện Con Mắt Thứ Ba như thế nào?

Ông Tổng Quản:

Nếu căn cứ vào Vi Diệu Pháp tạm gọi là truyền thống kinh điển, thì khi tu Thiền Định, chúng ta sử dụng một Đối Tượng để Quán Tưởng. Đối tượng này có thể là Vật Chất hoặc Tinh Thần. Với hai loại Đối tượng này, thì có hai ngã đi vào Luồng Tâm Thức của con người. Một là Ngũ Môn Hướng Tâm, hai là Ý Môn Hướng Tâm … Nếu tiến trình được xảy ra một cách thuận tiện, tích cực, lạc quan … thì Luồng Tâm Thức sẽ diễn tiến như sau: Chuẩn Bị, Cận Hành, Thuận Thứ, Chuyển Tánh, An Chỉ tâm. Chính tại giai đoạn An Chỉ Tâm này, các giác quan củaThực Thể ở trong trạng thái Thiền Định, được hình thành (theo Vi Diệu Pháp thì đây là hệ quả tất yếu). Và Con Mắt Thứ Ba là một trong những giác quan này.

Tam Tiểu Thư:

Ông có cách nào trình bày cho nó dễ hiểu không? Ông sử dụng quá nhiều lý thuyết, quá nhiều từ ngữ chuyên ngành nên khó hiểu quá à. Ông phải nghĩ ra cách nào chứ, ông phải làm sao cho tôi hiểu được! Tôi không thể nào hình dung ra được con mắt thứ 3, thứ 4 gì đó nó ra làm sao.

Ông Tổng Quản:

Tôi đã nghĩ ra cách để trình bày cho cô hiểu rồi. Mặc dù lối trình bày này không phải là chính xác, nhưng ít nhất nó cho cô một khái niệm, một ý niệm về cái nhìn của con mắt thứ 3 ở các cảnh giới khác với cảnh giới mà cô và tôi đang tồn tại. Thí dụ sau đây mà tôi sắp trình bày không phải là lạ lùng gì, mà khá phổ biến trong bộ môn vật lý. Mời Tam Tiểu Thư cùng quí độc giả vui lòng chú ý

Có một con kiến đang đi tìm một cục đường trên một mặt phẳng rộng vài cây số vuông. Trên mặt phẳng vài cây số vuông này, được trải một tấm ny lông trong suốt, giả thuyết là trong suốt tuyệt đối. Con kiến đang đi tìm cục đường được những con kiến đã đi tìm mồi về báo cho biết cự ly, hướng để tiến tới cục đường.

Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng, chúng ta là một người khổng lồ, có khả năng gấp mặt phẳng nylông trong suốt, trong đó có cục đường. Thế thì con kiến nhận được cục đường ngay lập tức. Nói một cách khác, công việc vừa làm ở trên, đã làm đảo lộn hiểu biết của con kiến về không gian và thời gian. Cụ thể là, đáng lẽ con kiến phải đi một thời gian rất lâu, một quãng đường rất dài, thì nay với 3 chiều không gian, mọi việc đều đảo lộn. Khi con kiến mang cục đường về tổ và kể lại cho bạn bè về hiện tượng nói trên, thì các bác học kiến giải thích là con kiến đi tìm cục đường đã rơi vào một trạng thái gọi là thay đổi chiều không gian, từ hai chiều thành ba chiều. Con người cũng chẳng khác gì. Khi chúng ta đi trên biển, khi chúng ta đi trên sa mạc, khi chúng ta đi ở trong một thành phố lớn xa lạ, chúng ta là một sinh vật 2 chiều. Không biết bao nhiêu người đã từng bị lạc đường khi đến những nơi không quen thuộc. Có người còn lạc đường rồi chết trên biển cả và sa mạc, vì rơi vào trạng thái không gian hai chiều không tìm thấy lối ra.

Tam Tiểu Thư còn nhớ, có lần chúng ta lái xe hơi ở thành phố Phan Thiết, đi tìm khách sạn mình đang ở, nhưng chẳng biết ở đâu. Mình đi lanh quanh riết xém bị cảnh sát phạt. Chợt cô nhớ ra máy định vị GPS. Khi khởi động máy, thì nhìn thấy khách sạn, chỉ cách mình có mấy chục thước ngay trước mặt. Chính nhờ máy định vị, mà con người hôm nay giữ được bản chất của mình là một sinh vật 3 chiều.

Chúng ta tự hỏi, nếu chiều không gian tăng lên nhiều hơn 3 chiều; thí dụ 4 chiều, 5 chiều, cho đến "N" chiều, hoặc "không" có chiều nào cả, thì việc gì sẽ xảy ra? Chắc quý độc giả còn nhớ, có một tài liệu cổ nào đó đã từng ghi “Ở nơi đó, không tới, không lui, không cao, không thấp, không sáng, không tối. không sanh, không diệt …”. Rõ ràng với công cụ Thiền Định, người xưa đã phát hiện ra những chiều Không gian, những Không gian khác …

Tam Tiểu Thư: 

Ông Tổng Quản ơi, nghe ông nói nhiều chữ “Không” làm tôi nhớ đến Bát Nhã Tâm Kinh đó. Tôi đọc ông nghe nha: “Này Xá Lợi Phất, Tướng Không của các Pháp không sanh, không diệt; không dơ, không sạch; không tăng không giảm …”. Tôi thích bài kinh này nhất đó ông. Hôm nào ông giải thích giúp tôi mấy chữ “không” này nhé! À tôi muốn hỏi ông là việc thay đổi chiều không gian khách quan, việc thay đổi chiều không gian chủ quan của một Thực Thể tu Thiền Định thì sẽ đưa đến hệ quả như thế nào? Những gì mà chúng ta quen gọi là một Tri Thức Luận lành mạnh, liệu giá trị của nó còn tồn tại trong những Không gian khác không ông? 

Ông Tổng Quản: 

Có lẽ ở nơi khác, một không gian mà chúng ta không thể khái niệm được, nó sẽ có những loại luận lý hình thức khác.

Ðệ Tam Nhãn chỉ mới ở cảnh Định Dục Giới, cũng đủ làm con người kinh ngạc, sở đắc về những kiến thức kỳ lạ, mà Con Người chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống. Họ phát hiện ra có những thực thể sinh hoạt ở Cảnh giới khác, họ gặp những người đã chết rồi, có thể là thân nhân hoặc người xa lạ. Có những Thực Thể khá giống với con người, sinh hoạt ở dưới một chân núi có nhiều rừng cây, nhiều suối nước, họ khá giống với loài người, giới tính có Nam, có Nữ …

Con người chỉ là một dạng Thực Thể. Khoa học ngày hôm nay đang cố tìm ra sự hiện diện của những Con Người tương tự ở những hành tinh khác. Tuy nhiên sau bao nỗ lực tìm kiếm, họ cũng chẳng thấy nơi nào mà có những điều kiện sinh hoạt, điều kiện khí hậu, được cho là thuận lợi để phát triển sự sống. Mặt khác, khoảng cách của những hành tinh lại quá xa. Cho dù được tính bằng vận tốc ánh sáng, thì vận tốc ánh sáng cũng chẳng có nghĩa gì so với khoảng cách vũ trụ. Tệ hại hơn nữa, vận tốc giãn nở lại gia tăng chứ không chậm lại như con người dự đoán.

Có lẽ chỉ có Tâm con người là có vận tốc không giới hạn. Thật vậy, Tâm con người nằm ngoài Thời gian và Không gian.

Thiền Định có lẽ là Khoa học của ngày mai, Khoa học của Thông Tin Toàn Cảnh.

Tam Tiểu Thư: 

Ông Tổng Quản ơi, tôi sống bên ông từ nhỏ. Thế nhưng hôm nay, khi nghe ông nói chuyện, tôi rất bất ngờ về ông. Ông làm ơn mở cuốn Tạp Thư ra xem đi, hoặc là ông Nhập Định đi rồi nói cho tôi biết ông là ai được không ông … ?

Ông Tổng Quản mỉm cười, trầm ngâm nhìn ra cửa sổ. Gió thổi rì rào qua kẽ lá. Trăng thượng tuần đang chiếu sáng trên bầu trời đêm của núi rừng hùng vĩ cô tịch …

(còn tiếp) ...