Sunday, September 21, 2014



Thiền Định  Chủ Thuyết Duy Vật

Đoàn bảo tiêu dừng chân bên bờ suối. Tam Tiểu Thư và ông Tổng Quản ngồi nghỉ chân trên một phiến đá bằng phẳng dưới tàng cây to rậm lá. Dòng nước chảy xiết, hàng cây hai bên bờ suối xanh tươi trong nắng chiều.

Tam Tiểu Thư

Ông Tổng Quản ơi, hôm nay tôi muốn hỏi ông chuyện này. Tôi thấy đời này đúng là bể khổ đó. Phật Pháp căn bản thì cũng nói đến Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế. Suy cho cùng thì khổ đau cũng là một loại Cảm xúc mà. Còn nữa, tham lam, sân giận … thì cũng là cảm xúc thôi. Dường như cảm xúc là động cơ chính yếu khiến cho người ta tu tập. Ông thì minh triết hơn tôi nhiều lắm! nên ông giải thích cho tôi nghe quan điểm của ông về cảm xúc là như thế nào đi! Có vẻ lãnh vực cảm xúc này cũng khá quan trọng khi mình thực hành tu tập, đúng không ông?

Ông Tổng Quản

Tam Tiểu Thư nói đúng rồi đó. Cảm xúc có một ảnh hưởng quyết định trong sinh hoạt thường nhật của con người, đôi khi nó còn mạnh hơn lý trí.

Không có cảm xúc thì sẽ không có động cơ thúc đẩy hành động, không có sáng tác, không có thi ca, không có những kiến trúc nghệ thuật. Không có cảm tử quân … và còn nhiều thứ khác nữa. Con người sẽ không còn là con người. Nói cách khác thì cảm xúc đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con người.

Những ca khúc bất hủ để đời cũng được sáng tác nhờ vào cảm xúc. Cô hay nghe nhạc nên chắc biết bản nhạc
"Gloomy Sunday". Bản nhạc này quá nổi tiếng! Hơn thế nữa nó chính là nguyên nhân tạo ra cái chết cho nhiều người. Rất nhiều ca sĩ nổi tiếng nhờ vào ca khúc "Unchained Melody" trong phim Ghost. Kho tàng âm nhạc Việt Nam cũng có: "Dư Âm", "Nỗi Lòng", "Bài Không Tên số 1", 2, 3, 4 … Kiến trúc thì có kỳ quan thế giới như đền Taj Mahal ở tại Ấn Ðộ. Công trình này đã được xây dựng để tưởng nhớ vị Hoàng Hậu 16 tuổi bạc mệnh. Trong lãnh vực thi ca của Việt Nam thì cuốn Tạp Thư cũng đã ghi lại nhiều loại thơ tình cảm theo chiều dài của lịch sử đất nước thời cận đại. Cho dù trải qua những thăng trầm của lịch sử, vật đổi sao dời; nhưng tình cảm con người, dường như không hề thay đổi. Tôi đọc cô nghe vài bài nhé:

Nợ tình chưa trả cho ai,
Mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.”
(Kiều)
 
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành,
Bóng gương thấp thoáng dưới mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa …”
(Cung Oán Ngâm Khúc)

Gái lớn ai không phải lấy chồng,
Can gì mà khóc nín đi không …”
(Thơ dân gian)

Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.”
(Ðoạn Tuyệt)

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi người ấy có buồn không.”
(TTKH)

Người đã yêu chưa? 15 hay 16,
Muốn ngỏ lời bằng lưu bút ngày xanh,
Bằng trang thư màu tím giấy mong manh …”
(Thơ học trò)

Bỗng chiều nay nhận được bài thơ nhỏ,
Anh hỏi rằng trời Ðà Lạt mưa chưa,
Nhớ vô cùng cô em gái ngày xưa.”
(Em Là Gái Trời Bắt Xấu)

Trong Thế Chiến Thứ II, thì
 ai cũng sợ chết, nhất là những người vào độ tuổi thanh xuân.  Nỗi sợ này thuộc về bản năng bảo tồn. Thật vậy, không có bản năng bảo tồn này, thì tất cả các sinh vật không tồn tại trên trái đất cho đến ngày hôm nay. Có lẽ người ta nói không sai - con người là linh ư vạn vật. Lòng ái quốc đã chiến thắng thần chết. Các phi công trẻ tuổi của không lực Hoàng Gia Nhật Bản sử dụng máy bay Zero, là những quả bom sống, với tinh thần Kamikaze - Thần phong hay là Gió thần; họ đã lao vào tàu chiến của Mỹ với hy vọng lật lại thế cờ. Từ ngữ Harakiri (mổ bụng tự sát của Võ Sĩ Đạo) được khắp mọi người trên thế giới biết tới, không cần dịch ra tiếng bản xứ. Qua phần trình bày trên, ai cũng có thể thấy, cảm xúc con người đóng vai trò quan trọng ra sao.


Tam Tiểu Thư:

Khi nói tới cảm xúc, người ta thường liên tưởng đến hệ thần kinh. Ông không thấy những người dễ vui buồn, cảm xúc hay thay đổi thì người ta hay nói là người này bị “Mát Thần Kinh” sao? Tôi đọc trong trang web, thấy các Nhà Sinh Học cho là phần vật chất quan trọng, đặc biệt nhất là Não bộ. Nó  chính là nơi sản sinh ra cảm xúc đó.

Các Khoa Học Gia họ có những giải thích đơn giản lắm. Thí dụ họ nói là những tác phẩm nghệ thuật lớn lao; từ Cổ chí Kim, từ Ðông sang Tây - đều là sự thăng hoa của Bản Năng Tình Dục. Cụ thể là nếu không có các nội tiết tố như: Estrogen, Testosteron, Progesteron … thì chẳng có tác phẩm nào cả. Việc tiết ra các nội tiết tố này thì cũng bị chỉ huy bởi bộ Não. Nói một cách khác, Vật chất đã đẻ ra Tinh thần. Nếu diễn tả một cách bình dân và đơn giản thì nó cũng tương tự như mũi tiết ra nước mũi …

Ông Tổng Quản:

Chủ thuyết mà cô vừa đề cập, là một Chủ thuyết khá kinh điển. Theo tài liệu sách vở, thì dường như nó đã có từ thời Democrite. Chắc quý độc giả cũng như Tam Tiểu Thư còn nhớ khi mình học Tâm Lý Học ở nhà trường, bộ môn này cho biết Tâm Lý học có ba Chủ Thuyết:

- Chủ Tâm Lý.
- Chủ Sinh Lý.
- Tâm Sinh Lý Song Hành.


Chúng ta đang ở vào đầu thế kỷ thứ 21 với nhiều tiến bộ vượt bậc về khoa học. Ai cũng biết: Tiềm Kích thế hệ thứ 5 đã được biên chế trong không lực Hoa Kỳ, và hiện nay người ta đang chuẩn bị cho thế hệ thứ 6 ra đời. Về Thiền Định, nếu muốn tự mình nâng cấp cho phù hợp với trào lưu thời đại, chúng ta cần phải tìm hiểu Thiền Định đã được các bộ môn khoa học nghiên cứu ra sao và các Nhà Khoa học đã có ý kiến về nó như thế nào.

Ðối với Khoa học Thực nghiệm, thì dường như Não bộ là nền móng của Tâm Lý con người, là sào huyệt của tất cả tiến trình Tâm lý. Nó chính là đời sống Tinh thần con người. Nếu ai đó có muốn nghĩ khác hơn, thì người ta cũng chẳng biết cách nào khác. Mặc dù có một số hiện tượng mà người ta gọi là dị thường, thì Khoa học Thực nghiệm ngày nay cũng đành “bó tay”, “bó chân”; nói đúng hơn là “bó toàn thân” luôn. Không cần nói ở đâu xa, ngay ở tại Việt Nam, có một cô gái đã phải trải qua những tiến trình kiểm tra gay gắt, chặt chẽ nhất - vẫn chứng tỏ được rằng cô có thể nhìn bằng trán và mũi. Cô bị bịt mắt mà vẫn có thể đi xe máy và đọc báo bình thường. Với hiện tượng này thì ngay cả một bác sĩ Nhãn khoa cũng không thể nào lý giải nổi thị giác con người là gì. Không cần nói, ai cũng biết đây là một thách thức đối với Khoa Học hiện đại của con người.

Những tiến bộ về trang thiết bị từ phổ thông đến hiện đại để khảo sát hình ảnh cũng như chức năng của não như: EEG (điện não đồ), PET (Positron Emission Tomography), Kirlan, Backster … đã giúp các nhà khoa học có những phát hiện mang tính chất cách mạng về Não bộ con người.

Lúc trước người ta nghĩ Não bộ giống như một ổ cứng, chỉ có những tế bào 
suy thoái, chết đi. Nhưng ngày nay, nhờ những công cuộc khảo cứu của rất nhiều Khoa Học Gia cùng sự trợ giúp của máy móc hiện đại, người ta cho rằng: Não bộ con người là một ổ cứng mềm dẻo, có lẽ là không bao giờ già nua.Thuyết của Lazar (2005) và Luders  (2009) cho rằng Não bộ con người có thể co giãn để thích ứng với việc lưu trữ dữ liệu. Quan điểm lúc trước cho rằng Não bộ là hoàn thiện đã tỏ ra mâu thuẫn với thực tế. Não Bộ đồng hành, thích nghi, thay đổi với thực tế. Đó là khảo cứu của Gohen (2006).

Vào năm 2007, Brefczynski Lewis cho biết: Não bộ con người phát triển theo thời gian; những thách thức làm cho hoạt động của Não Bộ gia tăng mãnh liệt.

Những nghiên cứu mới nhất cho thấy: rõ ràng ở độ tuổi rất cao Não bộ con người vẫn có thể thay đổi. Não có thể tự sản xuất ra những tế bào thần kinh mới. Như vậy, Não của người già cũng giống hệt như ở người trẻ - có khả năng thích nghi và thay đổi bất cứ lúc nào. Thật vậy, một lối sống đơn điệu, nhàm chán, vắng bóng các thách thức, thì dù già hay trẻ - cũng làm cho Não bộ suy thoái. Ngược lại, thách thức trí tuệ làm cho Não bộ phát triển. Các công cuộc khảo cứu về Não bộ đưa đến kết luận rằng sự phát triển về Não Bộ dường như không giới hạn về tuổi tác. Tóm lại, người già vẫn có thể tập tu Thiền Định và cũng có những thuận lợi y như lúc còn trẻ tuổi.

Tam Tiểu Thư

Những kiến thức mới về Não bộ này có giúp ích gì cho việc tu Thiền Định không ông?

Ông Tổng Quản

Có chứ! Theo trường phái Chủ Sinh lý thì Não bộ con người là tất cả. Nó là yếu tố ắt có và đủ của tất cả các loại sinh hoạt tinh thần. Do đó, Thiền Định cũng không thể thoát ra khỏi Vương quốc của Não bộ.

Theo họ - những nhà Chủ sinh lý, thì khi Thiền; cụ thể là Nhập Định thực sự, cơ thể vật lý tiết ra những chất dẫn truyền thần kinh (Neurotransmitter). Trong đó có chất Dopamin rất nổi tiếng. Các nhà Sinh học đã giải thích là trong hiện tượng Thiền Định, xảy ra một tiến trình như sau: Khi người tu Thiền Định, chú Tâm vào một cái gì đó một cách mạnh mẽ lâu dài, thì cơ thể vật lý sẽ tiết ra Dopamin. Dopamin xuất hiện một cách từ từ, không hề ào ạt. Nhưng khi Thiền càng lâu, thì hàm lượng Dopamin tăng cao một cách đáng kinh ngạc (65% trên nồng độ chuẩn). Bình thường người ta chỉ thấy hàm lượng cao này ở những người bệnh Tâm Thần. Dopamin xuất hiện ở người tu Thiền Định nó không có tác dụng giống như Dopamin tiết ra ở người sử dụng ma túy và nó không gây nghiện. Dopamin còn giúp cho cơ thể sản xuất ra Noradrenalin. Chính chất Noradrenalin này làm tuần hoàn của máu gia tăng. Người ta cho rằng Dopamin và Noradrenalin có tác dụng cộng hưởng.

Bất cứ ai thực sự Nhập Định được, chưa nói là ở lớp Định nào - theo trường phái Thiền Nguyên Thủy - thì đều có những cảm nhận về cảm giác. Người ta mê đi trong giây lát; thời gian có thể ngắn hoặc dài; có khi thấy bước chân hụt như trong khi nằm mơ. Thế rồi mình biến thành một con người khác, có cảm giác lâng lâng, khoái cảm, dễ chịu như tắm vòi sen sau khi tập thể dục, một sức sống huyền bí tràn đầy cơ thể vật chất và tinh thần. Người ta cảm thấy ngây ngất, tràn đầy hạnh phúc.

Có một cô gái miền quê đã kể lại cảm giác sau khi Nhập Định như sau: Tôi nghĩ tới lưng nó cũng vui, tôi nghĩ tới cái đầu gối nó cũng vui.

Sơ Thiền Hữu Sắc được mô tả gồm các yếu tố: Tầm, Tứ, Nhất Tâm, hệ quả cuối cùng là Hỷ Lạc. Còn Khoa học hiện đại thì cho đó là tác dụng của hoạt chất: Dopamin và Noradrenalin.

Tam Tiểu Thư

Này Ông Tổng Quản, nếu thực sự Dopamin và Noradrenalin là bản chất của Nhập Định, thì tôi thấy công việc tu Thiền Định cũng khá đơn giản. Tu làm chi cho nhọc thân, mệt xác, giống như Tam Tạng ngồi chai cả đít. Mình sử dụng một liều lượng ma túy nào đó để kích hoạt hai hóa chất Dopamin và Noradrenalin có phải đơn giản, thực tế và hay hơn không?

Ông Tổng Quản

Cô tính như vậy thật là gọn ghẽ, đơn giản thực tế. Nhưng khi sử dụng ma túy hoặc một loại chất say nào đó, thì sự xuất hiện của Dopamin và Noradrenalin lại không giống như khi tu Thiền Định. Ma túy tác động vào Trung Tâm Thần Kinh Trung Ương và làm Não tiết ra Dopamin và Noradrenalin với hàm lượng cao. Nó xuất hiện một cách đột ngột và ào ạt, sau đó chấm dứt ngay. Nó gây cảm giác hưng phấn, tự tin và hạnh phúc. Tác hại là kể từ đó, não không tự tiết ra Dopamin nữa, và nếu muốn có lại cảm giác này, thì người sử dụng phải tiếp tục dùng thuốc với liều ngày một tăng; nếu không sẽ bị trầm cảm, buồn bã, sợ hãi, lo lắng, suy sụp hoàn toàn.

Ðối với người tu Thiền Định, chúng ta cần phải nhắc lại là Dopamin và Noradrenalin chỉ tiết ra một cách từ từ, nhưng nó không gây nghiện. Mặc khác, cảm giác khoái cảm về Tinh thần và Vật chất chỉ là một tính năng trong nhiều tính năng khác của Thiền Định. Trong cơn Nhập Định, có những thành tích khác và những tính chất khác làm cho người tu Thiền Định chú Tâm hơn. Họ có thể biết những việc sẽ xảy ra mà người ta thường gọi là "mở Đệ Tam Nhãn". Cái quan trọng nhất là người ta hiểu ra sự thật về Vũ trụ, về chính mình, về cuộc sống … Nói cách khác là người ta tìm ra được Chân Lý.

Đó là chuyện về Khoa Học. Nhưng trên thực tế, Cuốn Tạp Thư có ghi lại một câu chuyện về một người có khả năng tiên đoán tương lai nhờ vào thuốc phiện. Tôi kể lại cô nghe nhé.

Câu chuyện là tại một địa điểm của thành phố Sài Gòn. Cách đây đã nhiều thập kỷ, có một vị tên là D - rất nổi tiếng về việc biết tương lai; thậm chí những vị quyền cao chức trọng cũng cần phải nhờ tới ông. Tuy vậy Ông chỉ có thể tiên đoán được tương lai, sau khi sử dụng thuốc phiện. Ông đã mất từ lâu. Có người đã làm một bài thơ trên mộ của ông để thương tiếc tài Tiên tri của Ông.

Có một gia đình của vị Bác sĩ giàu có, cũng có chức có quyền. Lúc bấy giờ, gia đình vị Bác sĩ này ở một con đường trong Chợ Lớn. Ông "D" tiên đoán gia đình vị Bác sĩ như sau: “Sau này anh chị sẽ dọn tới một căn nhà, bên cạnh có sân Tennis. Ở tại căn nhà này, anh chị sẽ mất một đứa con trai. Sau đó anh chị lại chuyển qua một căn nhà khác, căn nhà này ở một con đường có nhiều Gara và nhà in.”

Sự thật đã diễn tiến như sau: Gia đình vị Bác sĩ này chuyển tới một căn nhà là một villa lớn ở đường Võ Thị Sáu bây giờ. Bên cạnh nhà là một khu đất trống của Sứ Quán Anh Quốc. Miếng đất có diện tích rất lớn, nhưng vì không sử dụng tới, nên cây cối mọc lên như một khu rừng nhỏ. Đó là hiện trạng khu đất này khi gia đình vị Bác sĩ nói trên dọn đến căn nhà kế bên. Nhưng sau đó, Sứ Quán Anh tạo dựng ra bể bơi và sân Tennis trong khu đất này. Chính tại đây gia đình vị Bác sĩ có một người con trai chết vì bệnh Uốn Ván (Tetanus). Sau đó, gia đình vị Bác sĩ chuyển về một căn nhà. Căn nhà này ở đúng vào nơi có nhiều Gara và xưởng in, đúng như lời tiên đoán của ông D trước đó (khoảng gần 20 năm trước). Đây là căn nhà cuối cùng của gia đình vị Bác sĩ.

Tôi kể cô nghe câu chuyện này không có ý định cổ võ việc sử dụng ma túy; mà chỉ nêu ra như một câu chuyện thực tế để tham khảo. Thật vậy, đối với Khoa học mà không có phản biện, thì có lẽ cũng giống như một món ăn lạt lẽo, không có muối, không có đồ gia vị.

Tam Tiểu Thư

Phải nói là khi khảo cứu về Khoa học, cái gì dường như cũng có thể xảy ra, không ai có thể dự đoán trước được, thiên nhiên đầy những bí ẩn. Ðúng thế, chúng ta chỉ quan sát được một phần rất nhỏ của Vũ trụ, phần còn lại rất lớn kia, người ta gọi là Vật Chất Tối.

Vẫn theo các Nhà Khoa Học, thì các hiện tượng người ta cảm nhận được trong các lớp Thiền Định, chẳng qua chỉ là sản phẩm lừa phỉnh của Não Bộ, tất cả chỉ là Ảo giác. Thí dụ như thấy màu sắc rực rỡ, những dải ánh sáng, những tia lóe sáng; có khi thấy cả hình người, mặt người. Các Khoa học Gia cho là người  tu Thiền Định đã bắt gặp được khu vực Vô Thức của mình, cho nên thấy những hiện tượng kỳ lạ nêu trên.

Ông Tổng Quản

Vào năm 1996, có nhà Sinh học Thần kinh Giacomo Rizzolatti, và năm 2008 có thêm Sinigaglia đã làm một khám phá quan trọng. Họ phát hiện ra Nơron Gương  - còn gọi là Tế bào Thần Kinh Gương. Phát hiện này được cho là một cuộc cách mạng của sự hiểu biết về Não Bộ. Nơron Gương có thể hiểu là tế bào Thần kinh Vận động (Tế bào Thần kinh điều khiển các cử động của thân xác) - đều có khả năng phản ánh các cử động của người khác hoặc con vật khác. Khi chúng ta quan sát những gì mà người khác trải nghiệm nơi thân xác vật lý của họ, chúng ta cũng có thể trải nghiệm được chính điều đó với Tế bào Thần kinh của chính chúng ta. Có nghĩa là: Chúng ta là người khác.

Tam Tiểu Thư

Ồ! Phát hiện này độc đáo thật đó. Nếu nói như ông  thì tôi phải ráng tìm những người hay cười vui vẻ để tuyển vào đoàn bảo tiêu. Khi một người ở trong một tập thể thân thiện từ ái như vậy, “Neuron Gương” của bộ Não sẽ tiếp nhận dữ kiện về nụ cười và bắt đầu hành động: truyền các Xung động Thần kinh khiến họ cảm thấy thư giãn và cười theo. Bắt đầu từ ngày mai, tôi phải quan sát vẻ Trầm tư Mặc tưởng của ông, hy vọng Neuron Gương trong bộ Não của tôi cũng copy và truyền thông cảm xúc với ông. Chuyện này nghe hơi bị hay đó Ông Tổng Quản.

Ông Tổng Quản

Thôi bây giờ chúng ta thử tổng kết một cách sơ lược những tiến bộ của Kỹ thuật Thiền định qua lịch sử của nhân loại nhé. Tôi xin nói trước, đây chỉ là quan điểm chủ quan của cuốn Tạp Thư, chứ không phải đây là một sự thật của lịch sử:

Con người đã phát hiện ra một cách tình cờ hiện tượng Thiền Định trong thời kỳ Branman. Sau đó Thiền Định hình thành trong thời kỳ Upanisad. Có lẽ những tu sĩ Upanisad là những người tu Thiền Định đầu tiên của nhân loại. Các Trường phái sau Upanisad đã hoàn thiện phần nào Kỹ thuật Thiền định. 

Trường phái Phật giáo, Raja Yoga đã hoàn thiện Kỹ Thuật tu Thiền Định ở một đẳng cấp rất cao. Thậm chí mãi đến hôm nay con người vẫn chưa hiểu được. Các Lạt Ma Tây Tạng phát minh ra Mandala. Nhờ công cụ này mà Thiền Định được nâng cao một bước về Kỹ Thuật. Không cần tư chất thông minh, con người vẫn có thể đạt được Định Tâm nhờ công cụ Mandala. 

Khoa học hiện đại đã phát hiện và đóng góp cho Thiền Định những yếu tố như: Dopamin, Noradrenalin, Tế Bào Gương … 


Vấn đề Tế Bào Gương người ta cũng tìm thấy ở Vật lý Lý thuyết, Vũ trụ Song song, Rối lượng tử … 

Dường như Thượng Đế đã biểu lộ những Quy luật Vũ trụ ở những lãnh vực tuy khác nhau nhưng có cùng một mẫu số chung. Thượng đế có lẽ cung cấp những tham số của một bài toán còn nhiều ẩn số để con người phát biểu Lý thuyết Thông tin Toàn cảnh. 

Ngoài ra, còn có rất nhiều nỗ lực khác của Khoa học để giải thích về các hiện tượng như: Cận tử, Xuất hồn, Tiên tri, … những Chủ thuyết như: Pavlov, Phản ứng có điều kiện, v.v…

Sự thật thì chúng ta chỉ trình bày được một phần nào Chủ thuyết Duy vật về vấn đề Thiền Định. Còn rất nhiều chi tiết khác không nổi bật lắm, nên không được đề cập tới trong tài liệu này.

Công cụ khảo cứu Thiền Định của Khoa học Duy vật dựa trên 5 phương diện sau:

1. Người ta mặc nhiên chấp nhận mình là một sinh vật ba chiều. Do đó người ta:
2. Đương nhiên công nhận không gian hiện hữu là ba chiều. 
3. Chấp nhận sự hiện hữu của thời gian. (xem đồng hồ vật lý là thước đo thời gian). 
4. Luận lý hình thức kinh điển được sử dụng một cách mặc định. 
5. Dựa vào sự trợ giúp của máy móc như: EEG (Ðiện não đồ), PET (Positron Emission Tomography)v.v… 

Thông tin của cuốn Tạp Thư tỏ ra quan ngại một cách sâu sắc khi Khoa học hiện đại đã sử dụng 5 phương tiện nói trên để khảo cứu về Thiền Định. Lý do là vì có nhiều hiện tượng như Vanga, nhà ngoại cảm P.T.B.H, một số người tu Thiền Định biết trước tương lai gần, cũng có thể biết trước nhiều năm; thậm chí có khi thấy cả đời người cho đến chết. Liệu rằng Dopamin, Noradrenalin đóng góp vai trò gì trong những hiệu ứng nói trên?

Rất mong được quý độc giả, đóng góp ý kiến, phản biện.

Tam Tiểu Thư

Ông có lý đó! Tôi nghĩ dù Khoa học có nhiều tiến bộ, nhưng những Nghiên cứu Khoa học về Thiền Định hiện nay hãy còn rất sơ sài, hạn hẹp. À hôm nay ông toàn nói về Chủ thuyết Duy vật mà chủ yếu là sự liên hệ giữa Cảm Xúc và bộ Não con người. Vậy nếu đứng trên góc độ của Thuyết Duy Tâm, thì nó ra sao hả ông?

Sương đêm lắng xuống bao phủ núi rừng, đây đó tiếng chim đêm xào xạc vỗ cánh pha lẫn tiếng rả rích của côn trùng gợi cho Tam tiểu Thư nỗi buồn mênh mang của kẻ xa nhà … 

(còn tiếp) ...



Wednesday, September 17, 2014


Tam Tiu Thư thc mc v vic người ta nhìn thy mt số hình nh khi tp thin đnh và trong nhiu trường hp khác na (Tiếp theo)


Tam Tiểu Thư:

Này Ông Tổng Quản! Tôi có một thắc mắc như thế này không lạc đề chứ? Tôi được biết có những người họ tu tập theo trường phái Tịnh Độ Tông. Họ tu bằng cách niệm danh một vị Phật. Sau khi tập luyện có kỹ thuật một thời gian dài, rồi sau đó không cần niệm nữa vẫn nghe được tiếng niệm Phật. Có người cho rằng đó là một ấn chứng của sự thành tựu ban đầu, một tín hiệu đáng khuyến khích.

Ông Tổng Quản:

Theo hiểu biết của ngày hôm nay thì thị giác và thính giác là hai giác quan quan trọng nhất của con người. Thị giác cung cấp khoảng 80% thông tin, thính giác cung cấp khoảng 20% đến 30% thông tin. Bình thường, hai giác quan này cũng dễ bị tổn thương khi bị cung cấp những thông tin không chính xác. Người Việt Nam có câu: “Nhìn Gà hóa Cuốc”. Tâm lý học thì cho là “biết” hay “tri giác” thật sự chỉ là việc nhớ lại. Theo quan điểm của Tâm lý học, thì việc nghe thấy tiếng niệm Phật; không hơn không kém chỉ là một hiện tượng giống như “tự kỷ ám thị” (Auto Suggestion). Tâm thần học thì sắp hiện tượng này vào một trong các loại bệnh về tâm lý khá phổ thông. Bất cứ ai cũng có thể thăm quan một bệnh viện tâm thần nào đó, và cũng sẽ được gặp rất nhiều bệnh nhân cho biết họ nghe thấy một hoặc những tiếng nói về vấn đề gì đó.

Ai cũng biết, âm thanh mà chúng ta nghe được là sóng cơ học. Nó chỉ lan truyền vì có không khí. Hầu hết các cảnh giới khác  không có âm thanh, các thực thể giao tiếp với nhau bằng tiếng nói vô thanh. Nói một cách khác, âm thanh thuộc cảnh Dục giới – theo quan điểm Phật giáo – thì đây là cảnh mong muốn thỏa mãn các nhu cầu vật chất như: Ăn uống, quan hệ tình dục… Do đó, có thể hiểu các vị Phật không thể hiện hữu, tồn tại trong các dạng môi trường này. Đơn giản là môi trường này và các vị Phật không tương thích.

Tam Tiểu Thư:

Cuốn Tạp Thư của ông tuy tạp nhạp nhưng xem ra cũng có nhiều thông tin làm cho chúng ta nhớ lại những gì chúng ta đã từng học ở nhà trường. Ông còn thông tin gì khác nữa không?

Ông Tổng Quản:

Còn có những thông tin khác nữa! Sở dĩ tôi e ngại trình bày vì sợ làm cho nhiều tín đồ ở các tôn giáo từ khó chịu tới thậm chí là nổi giận là đằng khác nữa! Tại sao? Vì nó làm vỡ tan những ảo mộng mà người ta đã ôm ấp tới khi chết.

Tam Tiểu Thư:

Có chuyện đáng sợ đến như vậy sao?!

Ông Tổng Quản:

Vâng! Đơn giản thôi, vì không phải ai cũng quan tâm đến bộ môn Tâm lý học. Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin nói sơ lược về trường phái Tâm lý “Phản xạ có điều kiên” (Reflex Condition). Cha đẻ của bộ môn này là nhà Tâm lý học người Nga Ivan Petrovich Pavlov. Nói tóm lại con người và thú vật cũng chẳng khác nhau là bao nhiêu! Chủ thuyết này được ứng dụng rất thành công trong các tập thể. Cụ thể như quân đội; đòi hỏi phản xạ có điều kiện trong đời sống hàng ngày. Vô tình hay hữu ý, người ta cũng xử dụng khá rộng rãi, nhất là trong học tập: Lái các loại xe, chơi đàn, tập võ, v.v…Đó làm mặt tích cực; hay nói cụ thể hơn, đây là cái lợi của chủ thuyết này.

Tuy nhiên, cái gì hầu như cũng có mặt trái của nó. Hậu quả tiêu cực của chủ thuyết này được người ta khai thác trong việc tẩy não ( Brain washing). Vì tin là con người và thú vật không khác gì nhau, do đó người ta hy vọng kỹ thuật tẩy não sẽ làm thay đổi thực sự một ai đó. Người ta bắt ai đó (hoặc nhắc lại) một câu ngắn gọn; thí dụ: “Anh Nguyễn Văn A là người không tốt”. Do nghe nhiều lần việc này, đối tượng bị tẩy não lúc nào cũng nghe như vậy và tin như vậy. (Thực tế anh Nguyễn Văn A là người tốt!) Thực tế, kết quả này không tồn tại lâu dài như người ta mong đợi. Cụ thể là quân đội có một lối chào theo kiểu quân đội; nhưng xuất ngũ lâu ngày, người ta quên đi thao tác chào kiểu quân đội. Người ta còn nhớ trong thế kỷ trước, phi công lái máy bay U2 bị bắn hạ thì phải, sau đó bị tẩy nảo. (Có nguồn thông tin nói như vậy. Tuy nhiên, không có thông tin độc lập để kiểm chứng). Khi trở về Mỹ, thì việc tẩy não không tồn tãi mãi mãi, vĩnh cửu nữa!

Căn cứ vào hiện tượng lịch sử nói trên, thì việc tụng niệm một câu nào đó (của các thể loại tôn giáo), để sau đó không đọc mà vẫn nghe thấy, thì hiện tượng này có lẽ không tồn tại lâu dài.  Rõ ràng đây là một hệ quả mà chúng ta có thể biết trước.

Tam Tiểu Thư:

Theo như thông tin của cuốn Tạp Thư, thì việc nghe cái gì đó hoặc nhìn thấy cái gì đó bằng tư tưởng – về bản chất đều giống nhau. Vi Diệu Pháp cho đó là “Ý môn hướng tâm”. Nó khác với “Ngũ môn hướng tâm”. Có phải vậy không, ông Tổng Quản?

Ông có thể vui lòng kể cho tôi và quý độc giả về kinh nghiệm thực tế về thính giác thông qua việc tu thiền được không?

Ông Tổng Quản:

Với thính giác của người tu thiền định thì nghe thấy nhiều thứ lắm. (Nó là âm thanh vô thanh, không phải là sóng cơ học). Ví dụ như nghe thấy tiếng nổ bên tai, đại loại có cảm giác rõ ràng như tiếng súng. Người ta nói rằng đó là hiện tượng “Ngũ khí triều ngươn” khi nghe thấy tiếng nổ lớn ở trên đỉnh đầu. Người ta gọi là “Tam huê tụ đảnh” khi nghe thấy thế giới khác nói chuyện, v.v.

Tuy nhiên, người tu thiền nếu quá chú tâm vào việc nghe, thích thú về khả năng này (người ta còn nghe thấy cả tiếng âm nhạc…), thì các cảnh giới Dục giới mà không có thân xác vật lý sẽ tìm cách tạo mối quan hệ qua giác quan này. Họ có thể tiên đoán được việc này, việc kia; có khả năng đưa ra những toa thuốc chữa bệnh…Người tu thiền vì cái tôi, thích thú vì người ta gọi mình là Thầy, là Sư phụ…chẳng bao lâu sẽ bị mượn thân xác. Nói một cách nôm na, gọi là bị ma nhập.

Tam Tiểu Thư:

Xem ra thế này thì việc nhìn thấy hay nghe thấy cái gì đó lại là việc “lợi bất cập hại”.

Ông Tổng Quản:

Việc nhìn thấy hoặc nghe thấy, bản chất nó không phải là tiêu cực, mà phải nói là tích cực. Vì nó là tín hiệu báo cho chúng ta biết chúng ta có khả năng mở được con mắt thứ 3 một cách bẩm sinh. Trở ngại là chính mình lại không biết đó là hàng thật hay hàng giả.

Tam Tiểu Thư:

Ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này được không? Tôi nghĩ rằng quý độc giả cũng như tôi càng nghe càng thấy bối rối.

Ông Tổng Quản:

Vâng, việc nhìn thấy hay nghe thấy cái gì có rất nhiều nguồn gốc. Có thật và có giả…

-         Nếu sử dụng các loại hóa chất có thể tạo ra các hình ảnh, âm thanh không bình thường. Tâm lý học thì cho đó là ảo giác.

-         Ngược lại, huyền môn hay nói cách khác theo khoa học tâm linh thì có một cách giải thich hoàn toàn khác. Hóa chất, chất say… khi vào cơ thể vật lý, nó sẽ làm hư hỏng tạm thời cơ thể vật lý. Cơ thể vật lý và cái tôi không còn tương thích. Do đó, cái tôi (là thể vía, phách, hồn…) tự đi ra khỏi cơ thể vật lý. Và một thực thể khác không xác định được (Unidentified entity) vào chiếm dụng cơ thể vật lý tạm thời. Chúng ta có thể thấy một người say rượu, họ hoàn toàn là một con người khác – xét về tất cả các mặt. Khi cái tôi trở về thân xác vật lý, họ ngạc nhiên vì những việc họ đã nói, đã làm trong lúc say.


Tam Tiểu Thư:

Cá nhân tôi có lẽ cũng như quý độc giả, cảm thấy những thông tin về vấn đề “nhìn và nghe” dường như bất tận, không có hồi kết! Ai cũng mong muốn một vấn đề được giải quyết dứt khoát rõ ràng; có hay không? Trắng hoặc là đen.

Ông Tổng Quản:

Xin phép Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả, cho phép tôi triết lý một tý. Thế giới chúng ta đang sống, đang sinh hoạt là một môi sinh đa nguyên chứ không phải nhất nguyên hay nhị nguyên. Rõ ràng đó là một sự thật khách quan. Trong cuộc sống của xã hội loài người, người ta thường nói đến tình cảm và tiền bạc. Thì ngay cả những câu chuyện xoay quanh vấn đề tình và tiền cũng thuộc về dạng đa nguyên. Hy vọng vào một cuộc tình vĩnh hằng là không thực tế! Tiền cũng có tiền thật và tiền giả, tiền rửa (money washing), tiền chân chính v.v… Hy vọng vào một cái gì đó nhất nguyên ở thế giới đa nguyên là mâu thuẫn với chính mình.

Tam Tiểu Thư:

Tôi hiểu “Triết lý” của ông rồi. Ông lại biến mình thành một triết gia từ hồi nào vậy! Vấn đề “nhìn và nghe” chắc còn những thông tin khác nữa, phải không ông Tổng Quản?

Ông Tổng Quản:

Đúng vậy, Tam Tiểu Thư. Còn rất nhiều thông tin khác nữa cơ. Chúng ta sẽ bàn tiếp về vấn đề này ở những bài sau nhé!

Xin tạm biệt quý vị độc giả và cảm ơn sự quan tâm của quý vị!

(Còn tiếp)


Sunday, September 14, 2014

 

Tam Tiu Thư thc mc v vic người ta nhìn thy mt s hình nh khi tp thin đnh và trong nhiu trường hp khác na.


Kính thưa quý vị độc giả!

Cảm ơn quý vị đã chia sẻ những điều thấy biết của mình cùng HHN để chúng ta cùng nhau trao đổi!

Bài viết này xin kính gửi tặng anh Phạm M.T và những độc giả gặp nhiều hiệu ứng  khác nhau trong quá trình tu thiền định!

Lời thưa:

Những loại bài viết này chỉ là sản phẩm tưởng tượng, hư cấu. Vì không được bất cứ một cơ quan hữu trách nào xét duyệt. Do đó, nó không có giá trị xét ở bất cứ góc cạnh nào. Rất mong được quý độc giả thông cảm!

Bối cảnh:

Dựa theo dạng tiểu thuyết kiếm hiệp của Trung Quốc. Đoàn bảo tiêu của trường phái “Xuyên vân kiếm pháp” (Kiếm trí tuệ chọc thủng mây mù vô minh). Tam Tiểu Thư  Ông Tổng Quản cùng cuốn Tạp Thư là những nhân vật và cuốn sách hư cấu, không có thật. Tam Tiểu Thư là người đứng đầu đoàn bảo tiêu (chính là tiền thân của DHL ngày hôm nay). Tuy nhiên, thực tế cô chủ nhỏ phải nhờ vào sự giúp đỡ của một vị Tổng quản, mà bản thân ông là một người quê mùa, thậm chí còn ngây ngô, ngớ ngẩn; nhưng đôi khi có những sự kiện gì thì ông lại là chỗ đáng tin cậy để nhờ sự giúp đỡ. Gặp phải cường đạo, ông liều lĩnh chiến đấu bừa bãi, chẳng có chiêu thức nào cả; làm trò cười cho mọi người, nhưng lại được việc. Khi gặp việc khó xử, Tam Tiểu Thư lại hỏi ý kiến của ông. Ông tuy ngớ ngẩn, nhưng lại có cuốn Tạp Thư – một cuốn sách vô danh, không có bìa, không tác giả, mua ở chợ trời; trang còn, trang mất. Tuy chỉ là một cuốn Tạp Thư (một cuốn sách ghi chép lung tung), nhưng lúc nào cũng hữu dụng; không cần wifi, không cần 3G; việc truy cập hoàn toàn thủ công; không điện, không pin, vô cùng kinh tế!


*****

Nắng như dệt hoa trên lối mòn xuyên qua một khu rừng đầy những cây cây cổ thụ xanh mát. Cây cối um tùm.


Tam Tiểu Thư:

Ông Tổng Quản à! (Đó là cách nói đầu câu chuyện của Tam Tiểu Thư.) Đêm qua và sáng nay nữa tôi có lướt web, và tôi đã đọc blog: HHN. Tôi thấy có một độc giả... À! mà cũng có một chị Admin (người quản trị) nữa – về bản chất có một mẫu số chung là họ đều nhìn thấy một cái gì hay nhiều hơn cái gì không phải bằng con mắt vật lý, tức là con mắt thường – thị giác của con người. Họ nhìn thấy trong khi công phu thiền định, và nhìn thấy hay gặp phải khi đang nằm mơ. Tôi đã suy nghĩ suốt đêm qua. Kể cũng lạ! không nhìn thấy bằng mắt thịt (thị giác hay còn gọi là con mắt mang tính vật lý ) mà vẫn thấy, vẫn biết cái gì đó. Kể ra cũng vô lý thật! Nhưng chúng ta vẫn nói rằng chúng ta nhìn thấy cái gì đó bằng tư tưởng là việc bình thường cơ mà! 

Ông Tổng Quản à! Ông có ý kiến gì không? Hay ông thử xem trong cuốn Tạp Thư của ông nó nói gì. Xưa nay, tôi vẫn nhớ không lầm thì cuốn Tạp Thư của ông đa dạng lắm mà.

Ông Tổng Quản (cười nhẹ nhàng):

Có lẽ mình có đáp án rồi. À…! Mà tôi linh cảm có lẽ cô sẽ thắc mắc như vậy, nên tôi đã xem cuốn Tạp Thư từ tối hôm qua rồi.

Tam Tiểu Thư:

Linh cảm của ông lợi hại thật! Tôi mà có được linh cảm “đẳng cấp” như ông thì tôi sẽ mua vé số cho nó nhàn hạ… Thôi, ông nói xem cuốn tạp thư nói gì.

Ông Tổng Quản:

Nhìn chung, cuốn Tạp Thư cung cấp rất nhiều thông tin về vấn đề này:

-      -   Tình hình thực tế về vấn đề này ở tại Việt Nam xuyên suốt thời gian qua nói riêng và thế giới nói chung.
-      -   Một số tôn giáo nghĩ gì về vấn đề này.
-      -   Vấn đề này qua cái nhìn của tâm lý học.
-      -   Quan điểm của phân tâm học.
-      -   Quan điểm của sinh hóa.
-      -   Quan điểm của Vi Diệu Pháp thuộc trường phái Phật giáo nguyên thủy
-      -   Quan điểm của một số trường phái tập thiền định.
-      -  V.v…

Tam Tiểu Thư:

Không biết rằng đó là kiến thức của ông hay là từ cuốn Tạp Thư, nhưng phải công nhận rằng nó  “Pro" (Chuyên nghiệp)  thật! Chỉ một vấn đề nghe tưởng như đơn giản mà ông lại cung cấp nhiều thông tin. Khổ nỗi, thông tin Đa chiều thì có, nhưng thông tin Độc lập lại không có! Thế là thế nào hả ông Tổng Quản?

Ồng Tổng Quản:

Tam Tiểu Thư à! Ở cảnh giới chúng ta đang sinh hoạt, nói theo kiểu tôn giáo; ở hệ quy chiếu hay loại không gian chúng ta đang hiện hữu, nói theo kiểu khoa học – là một môi trường có lẽ là còn hạn chế. Do đó chân lý hay sự thực - là những gì mà con người luôn muốn vươn tới - thật khó để đạt được. Câu trả lời sự thật là một câu hỏi mới – còn khó hơn câu hỏi trước.

Tam Tiểu Thư:

Vậy ông hãy trả lời trực tiếp vào vấn đề mà ông đã nêu ra đi!

Ông Tổng Quản:

Vâng, tôi xin trình bày những thông tin mà tôi đã đọc được qua cuốn Tạp Thư.

Theo cuốn Tạp Thư, xét về tuổi đời thì công nghệ thiền định hay đại loại tương tự như thiền định – chỉ thua có công nghệ quan hệ giới tính về tuổi đời. Người ta có thể hiểu không khó rằng, công nghệ thiền định là giả tạo, là phản lại tự nhiên. Nó phản lại cấu tạo tâm, sinh lý của con người.  Nó có thể được phát hiện do tình cờ. Và ngược lại với điều này, vấn đề giới tính và quan hệ giới tính nó lại mang tính bản năng của con người.

Kể cả đến ngày hôm nay,  quý vị nào đó quan tâm tới bộ môn thiền định, có ý định tìm hiểu trước khi đi vào tập luyện, hoặc đã từng tập luyện vài tháng cho đến nhiều năm. Tuy nhiên, có lẽ vẫn có nhiều người  có khả năng bị rơi vào tình trạng mất phương hướng. Chuyện nhìn thấy cái này, cái kia là một hiện tượng khá phổ thông. Phải nói là nếu thực sự tập thiền định thì rất nhiều người  tập. Ai cũng muốn tập thành công.  Tuy nhiên, trong quá trình tu tập, có nhiều vấn đề phát sinh, làm chúng ta thắc mắc. Nhưng đến khi tìm kiếm các tài liệu - kể cả bằng tiếng Việt cũng như tiếng nước ngoài - thì lại làm chúng ta bối rối, không có câu trả lời. Mặt khác tài liệu lại quá hiếm hoi; hoặc không đáng tin cậy. Chúng ta có thể liệt kê một số thông tin nói sau:

1 – Một số tác giả, âu cũng có thể gọi là các nhà khoa học thì cho là: Thiền định, cận tử, hóa chất, v.v  - đó chỉ là hệ quả sinh hóa của bộ não con người. Chúng ta có thể tạm gọi là trường phái “Chủ Sinh Học”.

2 - Ở thế kỷ trước, tại miền nam Việt Nam, có nhiều trường phái tu hành nói đến việc họ đã du hành ở những cảnh giới khác, kể cả thế giới con người. Điển hình như có một vị ở phái Khất Sĩ, có kể lại trong một tác phẩm nói về việc tu thiền định là: bản thân ông - trong lúc thiền định đã bay trên thành phố Sài Gòn. Lobsang Rampa thì trong tác phẩm của mình có nói tới việc ra khỏi thân xác (Out of Body), đến thăm viếng và chọn đồ tại một siêu thị mà ngày hôm sau ông ra mua hàng. Phật giáo có nhiều vô kể những hiện tượng tương tự như vậy.Tiên phong trong lĩnh vực này, phải kể tới câu chuyện “Cô Ba cháo gà du địa ngục”.

Việc thấy biết ở đây không phải chỉ là một vài hình ảnh thô sơ, mà đúng hơn nó giống như giấc mơ của chị Admin của trang blog này. Có rất nhiều tình tiết, rất nhiều ần dụ và biểu tượng xen kẽ, khó hiểu. Có vẻ như nó có một thứ logic nào đó mà chúng ta thiếu một hệ thống luận lý hình thức mà không thể hiểu được.

Người tu thiền định cũng thường hay thấy trước những sự việc sẽ xảy ra. Trong lịch sử thế giới cũng có nói tới những giấc mơ báo trước những việc sẽ xảy ra và việc thấy biết của các Vĩ nhân thông qua những giấc mơ mà người ta không thể giải thích được.

Tài liệu chính quy về hàng không của Hoa Kỳ có ghi lại chuyến bay lịch sử của đại tá Lindbergh. Chiếc máy bay Spirit of Saint Louis thực hiện chuyến bay xuyên Đại Tây dương đầu tiên của nhân loại. Sau 33 giờ bay, viên đại tá phi công đã ít nhiều mê đi vì mệt mỏi và buồn ngủ. Ông có kể lại rằng, ông thấy các con ma (ghost) đi qua, đi lại, xuyên qua thân máy bay, tựa như máy bay không có vỏ. Họ đứng cạnh ông để động viên ông và cho ông những thông tin liên quan tới việc phi hành (lúc đó máy móc và kỹ thuật phương tiện còn rất thô sơ). Tóm lại, việc chiếc máy bay Spirit of Saint Louis thành công cũng phải kể đến công lao hỗ trợ của các con Ma! Người ta tự hỏi, việc bay xuyên lục địa của Air bus hay Boeing ngày hôm nay đã trở thành một công việc sinh hoạt thường xuyên hàng ngày. Với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật  ngày hôm nay, phải chăng có lẽ đã làm cho các con ma thất nghiệp?!

Nói chung, cho dù Tam Tiểu Thư hay quý độc giả khá am tường một số ngôn ngữ phổ thông cũng chẳng tìm đâu ra; cho dù chỉ là một thông tin Độc lập đáng tin cậy. Có thể đây chính là gót chân Achille của bộ môn thiền định, làm nản lòng kể cả những độc giả kiên nhẫn.

Tam Tiểu Thư:

Ông Tổng Quản à! Đúng là có nhiều người theo đuổi nghiệp tu thiền đinh, nhưng đến khi họ bắt đầu thấy những hiện tượng nào đó, thì họ cũng không biết  phải làm gì 
tiếp theo; tu như vậy đã đúng hay chưa; dừng lại hay tu tiếp. Hiện tượng mất phương hướng này phải chăng cũng giống như trường hợp của anh Phạm M.T và nhiều trường hợp tương tự khác; trong đó có tôi và chị Admin? Ông có suy nghĩ gì về những điều thắc mắc về những hiện tượng thấy, biết của anh M. T cũng như  hiện tượng giấc mơ của chị Admin? 

Ông Tổng Quản:

Ở đây có những hiện tượng tích cực, hoặc tiêu cực xảy ra song song với chiều dài của quá trình tu thiền đinh của nhiều người và nó tùy theo sự tu tập của từng người. Theo cuốn Tạp Thư cho biết thì hiện tượng nhìn thấy hình tam giác của anh M.T là những bước đầu tiên trong quá trình dần định tâm, là mầm mống để có con mắt thứ 3. Tuy nhiên, những hình ảnh này ở đây nó chưa được logic. Và nó cũng còn khó hiểu. Chúng ta không nên quá chú tâm vào nó. Hãy tiếp tục trở lại công cuộc công phu thiền định và chú tâm vào điều duy nhất mình cần chú tâm. 

Đối với giấc mơ của chị Admin, thì ở đây nó lại có những hình thức mang tính chất tiêu cực. 

Thường thì những giấc mơ phản ánh những hiện thực về cái hồn (thể linh hồn, phách, vía...) của chúng ta - xuất hồn một cách thụ động và vô thức. Nó đi tới chỗ này, chỗ kia, tới cảnh giới này, cảnh giới khác. Nó phụ thuộc vào tâm và vào lối sóng sinh hoạt hàng ngày của chúng ta.

Trong giấc mơ, chị Admin đã tới một cảnh giới mà ở đó là cảnh khổ. Nó được thể hiện ở chỗ nơi đó là một bà già già nua, da dẻ nhăn nheo, và bà sờ mó lên người của chị Admin và tìm cách hút tinh lực của chị.

Thông thường thì những gì ta thấy, biết trong quá trình thiền đinh; hay những hiện tượng như những giấc mơ thường tương ưng với tâm và lối sống sinh hoạt của chúng ta. Theo như những hiện tượng xảy ra trong giấc mơ của chị Admin, thì điều này cho biết chị Admin phải là một người có sinh lực giới tính mạnh mẽ, chị là người mà có sức khỏe sinh lý tương đối tốt. Điều này thể hiện qua viêc chị dùng từ ngữ tả lại việc bà già kia thích vuốt ve và sờ mó lên cơ thể chị làm cho chị có cảm giác rằng người đàn bà này bị "ái nam, ái nữ"

Trong những bài viết trước, chúng ta cũng nói khá nhiều đến việc những linh hồn ở những cảnh giới khác, họ không có thân xác vật lý, nói một cách khác là không có thân tứ đại bằng xương, bằng thịt như ở cảnh giới con người. Họ thường nhập vào những người khác vì thích được quan hệ nam nữ, hay thỏa mãn những nhu cầu như ăn uống hay những nhu cầu khác  của họ... Những người mà bị những vong linh  họ nhập để thỏa mãn sở thích quan hệ tình dục vì những người này là những người khỏe mạnh và cũng mạnh về sinh lý, nên những thực thể khác họ mới tìm cách mượn xác và thỏa mãn những điều họ mong muốn.

Tam Tiểu Thư:

Ông Tổng Quản à! Có phải chăng một số những thực thể ở những cảnh giới khác họ cũng rất thích hào quang hay tinh lực của những người tu thiền định. Tôi thấy điều này hình như thể hiện thông qua việc bà ta đưa tay lên trán và tìm cách hút tinh khí của chị Admin. Chúng ta cũng đã xem bô phim "Tây du ký". Nội dung của bộ phim có nhiều đoạn nói lên rằng, những con yêu tinh rất thích ăn thịt của Đường Tam tạng. Vì ăn thịt của người tu hành là Đường Tăng thì chúng sẽ nâng cao được công lực của mình. Đây là một bộ phim giả tưởng; nhưng hình như tác giả cũng hiểu và nói lên phần nào sự thực rằng có những cảnh giới khác họ cũng thích tu hành và thích lấy đi sinh khí của người khác. Phải chăng giấc mơ của chị Admin là một hiệu ứng tiêu cực xảy ra trong quá trình tu thiền định là vì nó được thể hiện ở việc này?  Và dĩ nhiên là chị Admin hay bất cứ ai khác chẳng mong muốn gì những thực thể hay những linh hồn khác tìm cách lấy đi khí lực của mình.

Tuy nhiên, hình như giấc mơ của chị Admin không chỉ thể hiện những điều tiêu cực. Như trên ông đã nói - nó có nhiều tình tiết xen kẽ và đôi khi khó hiểu. Như việc chị kể lại ở cuối giấc mơ, thì chị thẩy mình bay bổng trên không trung và chị rất vui thích về điều đó. Ở đây việc xuất hồn và bay bổng này thể hiện vấn đề "Sắc" (theo Vi Diệu Pháp mà ông thường giải thích) của chị đã nhẹ nhàng đi qua quá trình tu tập? 

(Còn tiếp)