Thursday, July 17, 2014


Kỹ Thuật mở Đệ Tam Nhãn 
 Cảnh Thiên Dục Giới


 
  Kể từ ngày bắt đâu tu tập Thiền Định với HHN, Sao Mai thấy cuộc sống của mình trở nên có ý nghĩa hơn. Dù chưa hiểu hết những gì HHN và cuốn Tạp Thư chỉ dẫn, nhưng Sao Mai bắt đầu yêu thích những câu chuyện không đoạn kết của HHN. Họ tiếp tục nói về những điều có một không hai này.

SAO MAI

-  Chị HHN à! Em đã theo lời chị, thực hành Thiền Định mấy tháng trời rồi, mà chưa thấy dấu hiệu của con mắt thứ ba đâu cả, sao em vẫn chỉ có hai mắt thôi vậy chị? Bữa nay chị chỉ thêm cho em vài "chiêu" nữa đi nhen. Hình như chị còn giấu nghề thì phải. Chán chị ghê! 

HHN: 

-  Sao Mai à! Em đã thực hành Thiền Định được một thời gian rồi, tuy chưa phải là quá dài đối với người tu Thiền Định, nhưng nó là điều cần thiết, là nền móng để mở Đệ Tam Nhãn. 

SAO MAI


-  Theo chị, để mở được Đệ Tam Nhãn, có nhất thiết cần đến một tiến trình tu tập Thiền Định như em đang làm bây giờ không? Và theo cuốn Tạp Thư, thì nó có cho biết là có ai đó không cần phải tập luyện theo một  tiến trình Kỹ Thuật Thiền Định với một khuôn khổ nào cả, mà vẫn mở được Đệ Tam Nhãn không? 

HHN

-  Chuyện này thì chị nghĩ không phải riêng em, mà có lẽ tất cả quý độc giả đang hành Thiền theo nhiều phương pháp khác nhau cũng sẽ thắc mắc như vậy. Cuốn Tạp Thư có kể rất nhiều trường hợp về những người đang tập luyện một loại Thiền Định nào đó, rồi bỗng dưng mở được Đệ Tam Nhãn. Chị xin kể cho cô nghe hai trường hợp điển hình:

   1. Có một vị giới tính là Nữ, tập Thiền Định một cách chung chung, cũng chẳng theo một Trường Phái, kỹ thuật nào rõ ràng cả. Qua một thời gian tập luyện, trong một buổi công phu Thiền Định, thì cô thấy xuất hiện trước mắt cô một cuốn phim ngắn với nội dung như sau: Cô là một người  Pháp, làm việc và giao dịch trong một Ngân Hàng, và cô tự nghĩ công việc này rất phù hợp với mình. Mặt khác, cô còn cảm nhận một âm thanh rõ ràng như sau: “T.Q.L sao chưa đến với Thầy?”. Việc này đã xảy ra cách đây trên ba thập kỷ, (chúng ta phải lưu ý, ở tại Việt Nam lúc bấy giờ, việc mua bán làm ăn là một việc không thể tưởng tượng được. Do đó, công việc làm ở một  Ngân Hàng là một khái niệm còn xa lạ đối với người dân). Thế rồi thời gian trôi qua đi, người phụ nữ kể trên, bây giờ là giám đốc một công ty cũng có tầm cỡ tại một Tỉnh ở Việt Nam. Tất nhiên với tầm cỡ này, việc mua bán phải thông qua Ngân Hàng. Do đó, việc giao dịch của cô thường xuyên phải ra Ngân Hàng. Còn hơn thế nữa, thân nhân của Cô ở nước ngoài, đều phải nhờ Cô gởi tiền ở tại Việt Nam, vì lãi suất ở tại Việt Nam hiện tại cao hơn ở nước ngoài. Nếu chúng ta quay lại thời gian cách đây mấy chục năm, thì ai ngờ được rằng những biểu tượng nói trên đã thành hiện thực. Còn việc cảm nhận tiếng gọi “T.Q.L sao chưa đến với Thầy?”, thì chưa có gì để xác minh. 


   2. Một vị khác, giới tính là Nam, cũng ở trường hợp tương tự như trên. Người này cũng tu Thiền Định theo một Trường Phái nào đó. Trường Phái này chẳng có lý thuyết hay kỹ thuật nào đặc biệt cả. Sự thật phải bảo là "Tu mò". Trong một buổi Thiền Định, người nam giới nói trên, thấy người vợ của mình bồng một đứa nhỏ. Điểm đặc biệt là đứa bé này có đôi mắt rất đẹp. Lúc đó anh ta nghĩ là đứa nhỏ đó là con của vợ mình. Việc này như thế cũng hợp lý và bình thường mà thôi. Nhưng sự việc lại không phải như vậy. Cô gái này không có con (do cố ý), mà sau này lại hay bồng một con mèo có đôi mắt lạ và tuyệt đẹp! Một mắt màu xanh da trời, một mắt màu xanh lá cây.


   Qua hai câu chuyện kể trên, có lẽ đã là câu trả lời cho Cô cùng quý độc giả. 


SAO MAI:

-  Vậy thì chính cuốn Tạp Thư cũng nói giống như em nghĩ. Và như vậy thì em phải tập Thiền Định bài bản làm gì nhỉ. Cứ tập bừa đi cũng có sao đâu! Chị nghĩ em nói có đúng không? 

HHN:

-  Ừ, thì tập bừa cũng được, nhưng kết quả tu tập thì "hên xui". Vậy em chịu không? Việc thấy biết cái gì đó là hệ quả tất yếu của việc tu Thiền Định. Tuy nhiên, cần phải khẳng định với em rằng, việc tu Thiền Định chỉ thực sự được gọi là có kết quả khi hành giả nhập định thành công mà thôi. Tập luyện mà không có hệ thống, không có một kỹ thuật nào cả, thì nó có một cái bất lợi lớn là mình không làm chủ được mình. Lúc thì Nhập Định rất tốt, nhưng cũng có lúc Nhập Định không được. Điều quan trọng là hành giả cũng chẳng hiểu tại sao lúc thì được, lúc thì không. Lắm khi bất chợt thấy một cái gì đó, thì cũng chẳng hiểu đó là cái gì. Ðến lúc cố ý muốn thấy biết một việc gì, thì lại chẳng thấy cái gì cả; hoặc là có thấy cái gì đó cũng chẳng hiểu ý nghĩa nó là gì. 

SAO MAI:

-  À, ra thế! Đúng là hên xui. Nhưng em xem trên internet rồi. Ðối với khoa học ngày hôm nay, thì người ta cho là hiện tượng Nhập Định này là do hai hóa chất: Dopamin và Noradrenalin đã tiết ra trong cơ thể người ta. Hiện tượng này cũng giống như người ta sử dụng các chất say (chất kích thích); chỉ khác ở chỗ là, các chất say này làm cho hai hóa chất nói trên tiết ra ào ạt và chấm dứt ngay. Trong khi với người tu Thiền Định, thì hai hóa chất này tiết ra có chừng mực nhưng lại không gây nghiện. Ðây là một lối lý giải của thuyết Chủ Sinh Lý cũng rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, người chủ chương thuyết Chủ Tâm Lý thì lại đưa ra bằng chứng của Placebo, Y khoa thường gọi là giả dược; trường hợp giả châm cũng thế. Tâm Lý Học có ba chủ thuyết đó chị:

     - Chủ Tâm Lý  /  Chủ Sinh Lý  /  Tâm Sinh Lý Song Hành. 

HHN:

-  Thôi hôm nay chị sẽ bày cho em cách mở Nhãn của Định Dục Giới trước nhé?

SAO MAI:


-  Vậy là sao hả chị? Chị định nói là có nhiều loại Đệ Tam Nhãn lắm hả chị? nếu đúng thế, thì chị chỉ hết tất cả các cách mở các loại Đệ Tam Nhãn cho em đi nhen!

HHN:

-  Ðúng như em nói, không phải chỉ có một loại Đệ Tam Nhãn, mà có vô số các loại Đệ Tam Nhãn. Nó lệ thuộc vào từng Thực Thể; nghĩa là tùy thuộc vào cấu tạo Tâm, cấu tạo Sắc và Cảnh giới thực thể đang sinh hoạt. Để dễ hiểu điều này, em hãy tự quan sát chính mình. Cũng với chính hai con mắt bình thường mà mọi người đều có, ta nhìn một vật gì đó ở 2 thời điểm khác nhau, nó sẽ mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Khi còn nhỏ tuổi, chúng ta nhìn món đồ chơi là một cái gì đó quí giá. Nhưng với một tuổi đời nào đó, vì bận bịu lo sinh kế cuộc sống, chúng ta thậm chí còn không nhìn thấy món đồ chơi hiện hữu. Chắc chúng ta còn nhớ “Khi đã ghét nhìn Dơi hóa Chuột”! Chính bản thân chúng ta cũng có cái nhìn luôn luôn thay đổi tùy theo cấu tạo Tâm.

SAO MAI: 

-   Những gì chị trình bày làm cho em hết sức bất ngờ. Nhưng nếu suy nghĩ lại thì thấy cũng rất có lý. Cuốn Tạp Thư của chị cũng chứa đựng rất nhiều thông tin lạ. Em tu chưa tới đâu, nhưng cách nhìn cuộc sống của em bị thay đổi khá nhiều nhờ vào cuốn Tạp Thư này đó chị.


HHN:

-  Bây giờ chị sẽ trình bày cho em:

Cách thực tập để mở con Mắt thứ 3, ở cảnh Thiên Dục Giới

   Đầu tiên chúng ta hãy tạm chấp nhận vấn đề Cảnh giới, chiều không gian, môi trường, hệ quy chiếu … để dễ thuyết minh về vấn đề Đệ Tam Nhãn. Rất mong quí độc giả đón nhận như một Định đề mang tính chất tiên quyết.

   Sao Mai à, em phải xác định rõ ràng rằng Thiền Định chính là một công cụ, một Kỹ Thuật không thể thiếu được đối với vấn đề mở Đệ Tam Nhãn. Thiền định chính là công cụ giúp người ta có thể đạt được những khả năng khác thường - khả năng mà một con người bình thường không thể có được. Con Mắt thứ 3 cũng không là ngoại lệ. Tiến trình như sau:

   * Phải thực hiện các thao tác Kỹ Thuật về Thiền Định một cách chuẩn xác, chắc chắn.

   * Phải thuần thục trong công việc Nhập Định, ở đây chưa đề cập tới các lớp Định. 

   Có nghĩa là, em làm công việc Chú tâm vào một Đối tượng, chỉ một Đối tượng mà thôi. Việc Chú tâm phải luôn ở mức:

* Cao độ.
* Mạnh mẽ. 
* Liên tục.
(Những mô tả này là biểu tượng của hai từ ngữ: Tầm, Tứ).

   Khi em có ý định muốn biết một việc gì đó, thời gian có thể là: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai, thì đầu tiên Cô phải xác định việc đó một cách rõ ràng, cụ thể. Câu hỏi phải đơn giản, rõ ràng, thực tế, ngắn gọn … và chỉ một câu hỏi mà thôi … Khi có ý định này, em phải Chú tâm, phải để ý tới trong nhiều giờ, nhiều ngày trước.

   Ðến khi công phu, em lấy Đối tượng là vấn đề mà mình muốn biết, làm Công án để Quán tưởng. Có nghĩa là, Đối tượng này làm hai chức năng trong buổi công phu Thiền Định:

1. Chỉ: Làm cho tâm đứng lại.
2. Quán: Có nghĩa là vấn đề được hiểu biết một cách rõ ràng, sự thật được phơi bày, vỡ lẽ.

   Diễn tiến thực tế sẽ xảy ra như sau: Khi Thiền Định, Chú tâm ở mức: Cao độ, mạnh mẽ, Liên tục vào Đối tượng mà mình đã có chủ ý từ trước (nhớ là phải thật thư giãn), nếu xảy ra hiện tượng Phóng tâm, thì cố gắng quay lại chủ đề mà mình đang Quán tưởng, nếu nỗ lực nhiều lần thì Tâm sẽ đứng im (trong bộ môn Thiền Định người ta gọi là Nhất Tâm)

   Nếu đạt được trạng thái Nhất Tâm thì có hai khả năng xảy ra: 

   * Mất đi ý thức một khoảng thời gian, khả năng mê đi. Sự mất ý thức này thường hay xảy ra nhất. 

   * Đôi khi có cảm giác hụt hẫng y như là mình đi máy bay qua những lỗ hổng của không khí.

   Rồi bỗng nhiên, ta trở lại có ý thức hoàn toàn. Con người trở nên sáng suốt, tâm lý vắng lặng, vững chắc. Các nhu cầu vật lý không còn nữa; mất ý thức về tình cảm thân nhân. Chúng ta đã biến chuyển thành một con người khác, cũng có một tri thức khác không phải như trước nữa, chúng ta hiện hữu ở một Cảnh giới khác. Công cụ tiếp nhận các thông tin từ thế giới khách quan vốn có xưa nay của mình là thị giác và thính giác, nay ở môi trường này hay hệ quy chiếu này … nó không còn sử dụng được nữa. Nói một cách khác, Sóng cơ học, Sóng điện từ … không còn là công cụ để chuyển tải thông tin.

*****

   Do cấu tạo Tâm và Sắc đã thay đổi khi ở trạng thái Thiền Định (phải thực sự Nhập Định được), nên nó cần những công cụ để tiếp nhận những thông tin khách quan hoặc chủ quan phù hợp và tương thích với loại thân này, cũng như phù hợp với môi trường sinh hoạt mà người ta gọi là Cảnh giới. 


   Ðệ Tam Nhãn bắt buộc phải xuất hiện để đáp ứng những yêu cầu nói trên. Nó chính là công cụ thích hợp cho loại Thực Thể này, môi trường này. Nó tiếp nhận những thông tin không dựa vào Sóng điện từ, Sóng cơ học. 


   Khi chúng ta đang ở trong trạng thái của Định Sắc Giới, cụ thể là Thiên Dục Giới thì nhờ con Mắt Thứ Ba xuất hiện, và chúng ta thấy các hình ảnh, lúc đầu rời rạc, vô nghĩa. Lý do là vì Định Lực của chúng ta chưa thực sự ổn định, tính chất Nhất Tâm còn yếu đuối. Qua nhiều buổi thực tập cùng với nhiều nỗ lực, cố gắng, qua nhiều kinh nghiệm, thì Nhất Tâm sẽ ổn định hơn. Các hình ảnh tương đối ổn định, dường như có một ý nghĩa nào đó, hình ảnh rõ ràng, không còn lờ mờ như trước. Những cuốn phim ngắn có thể xuất hiện, và người mở Đệ Tam Nhãn bắt đầu thấy những cuốn phim này có một ý nghĩa nào đó.


   Ðây là một diễn tiến lạc quan của việc mở Đệ Tam Nhãn, thuộc cảnh Định Dục Giới. Thực tế, diễn tiến không phải luôn luôn lạc quan như thế này. Thật vậy, nếu kết quả của Thiền Định mà lạc quan như phần nói trên, thì có lẽ ai cũng mở được Đệ Tam Nhãn.

SAO MAI:


-  Khoan khoan, chị nói chậm lại chút xíu đi. Em có thắc mắc này. Từ trước tới giờ em đọc trên mấy trang web dạy tu Thiền nhiều lắm rồi. Nói thiệt là chưa có ai chỉ cho em cách để biết quá khứ vị lai như chị. Người ta toàn nói là họ Nhập Định rồi thấy Phật Di Đà, thấy Chúa hoặc là nhập lên cõi Tứ Thiền Hữu Sắc, Vô Sắc gì gì đó. Em nghe cũng không thể hiểu được nữa. Chị giải thích chút xíu về việc này được không?

HHN:

 Có một hình thức khác rất thường xảy ra khi tu Thiền Định: Đó là người ta hay diễn tả họ thấy biết cái này cái khác. Có người cho là mình đã gặp được Phật, Chúa. Có người lại cho là mình đạt đến cảnh Diệt Tận Định (Diệt Thọ Tưởng Định). Có người lại cho là mình nhìn thấy như cái Cầu Vồng ở cảnh Vô Sắc … Khi hiện tượng này xảy ra, cả Thầy lẫn Tín đồ cũng chẳng biết phải giải thích làm sao. Lý do là vì trên thực tế họ đã Tu Tập và được hướng dẫn Tu Tập nhưng lại không có một nền tảng, một hệ thống, một cơ sở Lý thuyết hay Kỹ thuật nào cả. Chúng ta lấy Việt Nam là trường hợp điển hình. Không thiếu gì các vị, với một kiến thức khá khiêm tốn, chẳng theo đuổi một công cuộc khảo cứu về Phật giáo từ nguyên thủy đến nay hay bất cứ một bộ môn nào cả ... Rồi bỗng nhiên một hôm, thông báo cho mọi người biết họ đã gặp một Vị nào đó, trao cho họ trách nhiệm để truyền pháp. Công việc nghe quá giản dị phải không? Số Tín đồ càng ngày càng đông. Trong khi đó chính bản thân Thầy cũng chẳng biết mình sẽ đi đâu về đâu, thì tất nhiên các Tín đồ cũng không khác gì. Không Lý thuyết, không Kỹ thuật, không có Nội quy. (Tôn giáo thường gọi là giữ giới). Thật là một tương lai với đầy những thách thức!


   Việc tu Thiền Định thực không đơn giản, vì phản lại tự nhiên, phản lại các bản năng cơ bản vốn có, sanh tử của con người. Có lẽ người ta đã đúng khi bảo rằng: “Kẻ thù lớn nhất trong đời là chính mình” . 


    Mở được con mắt thứ 3 ở cảnh Thiên Dục Giới cũng là khó lắm rồi. Tất nhiên để đạt được những Cảnh giới cao hơn thì đòi hỏi người tu Thiền Định phải có những khả năng cao hơn nữa. Còn với việc tu Thiền Định gọi là "Mù", rất có thể thấy biết một cách tình cờ, nhưng không thể làm chủ được kỹ năng gọi là con Mắt thứ 3. Cũng có thể bảo, họ cũng có con Mắt thứ 3, nhưng rất khó sử dụng. Mặt khác, còn đặt người ta vào những tình huống rất khó xử trí. Thật vậy, một trong các yếu tố để có được con Mắt thứ 3 là Niềm tin. Tin là mình có thể mở được con Mắt thứ 3, không có Niềm tin này, thì không mở được con Mắt thứ 3. Nhưng nếu lại sử dụng Niềm tin một cách thái quá, thì lại sanh ra phản tác dụng như: Mê tín, dị đoan …, thậm chí là ảo giác, điên loạn. Niềm tin biến thành thiên đường cho các loại ma: 
Ma phiền não, Ngũ ấm ma, Tử ma, Thiên ma  

   Bất cứ ai, cũng có thể xem trên các trang web, những lời tự thuật của các vị mô tả việc tu Thiền Định của mình với những kết quả rất đáng quan ngại. Thật vậy, ở Cảnh Vô Sắc, mà lại thấy hình tướng, thì thật là phi lý. Phật hay Chúa, còn cao hơn cả Cảnh Vô Sắc. Ở Cảnh giới đã là Vô Sắc hoặc trên Vô Sắc thì số Tâm vô cùng là ít, mà nhìn thấy được thì không thể hiểu nỗi. Phải bảo đó là những hệ quả khốc hại, mặt trái của việc "Thấy Biết", xảy ra do người tu không hiểu rõ về việc "Thấy Biết". 
Con Mắt thứ 3 là một con dao có quá nhiều lưỡi, khả năng đứt tay rất cao nên việc sử dụng rất là khó. Đã là dao có nhiều lưỡi mà lại vô hình vô ảnh. Thêm vào đó lại chẳng ai biết nó là cái gì. Bất cứ ai coi thường sự hiểu biết Hàn lâm, coi thường việc hiểu biết Kinh viện về Kỹ thuật, Lý Thuyết Thiền Định, đều có khả năng gặp phải những việc phản tác dụng này. 

   Tâm lý con người rất thích các cuốn phim ngắn, vì nó rõ ràng dễ hiểu và có vẻ sát với cuộc sống nên dễ giải thích. Người ta cho rằng khi nhìn thấy những cuốn phim ngắn như vậy, có nghĩa là mở được con Mắt thứ 3 cao cấp. Thánh nữ Teresa Avila cũng từng viết như vậy trong tài liệu tự thuật về cuộc đời của mình. Ðiều này hoàn toàn sai lầm với vấn đề con Mắt thứ 3. Chính vì lý do nói trên, mà con người ta thường chỉ mở được con Mắt thứ 3 ở cảnh Định Dục Giới. Ðây là một Cảnh giới rất gần với con người, sinh hoạt tương tự như con người, thọ thực, có giới tính, số lượng Bất Thiện Tâm không khác với con người là bao nhiêu. Ai thực sự chứng Thiền Định đều biết đến các Chư Thiên Ma ở cõi Thiên Tha Hóa Tự Tại, người ta có thói quen gọi là Thiên Ma Ba Tuần. Hiểu biết này sẽ được trình bày trong những bài tiếp theo.


   Rất mong bài viết này đóng góp một phần nào các thông tin liên quan đến vấn đề mở Đệ Tam Nhãn; cụ thể là Đệ Tam Nhãn ở Cảnh Thiên Dục Giới. Đây chỉ là loại Đệ Tam Nhãn thấp nhất trong các loại Đệ Tam Nhãn mà thôi.

   Rất mong được quý độc giả đóng góp ý kiến và thảo luận. 

SAO MAI:

- Chị HHN à, nghe thoáng qua thì thấy việc mở con mắt thứ ba có vẻ dễ ăn; nhưng xem lại thì Đệ Tam Nhãn của chị lại còn khó hơn em tưởng nhiều, chị ạ. Hèn chi có lần chị nói "còn chờ ngàn kiếp sau ..." Nhưng nói thiệt cùng chị, em cảm thấy rất vui cho dù phải đi hàng ngàn kiếp; miễn là đừng đi lạc đường thôi à. Em sợ là mình đi lạc đường, mà đi càng nhanh thì nó lạc càng xa đó. 


   Âm thanh của những hàng thông như những giai điệu miên thường, đang hòa cuộn với tiếng gió réo rắc như báo hiệu một ngày đã qua đi. Từng cơn gió thoáng mát mơn man trên mái tóc thướt tha của Sao Mai, như trả lại sự thư giãn cho cả không gian sau một ngày hoạt động. Cô lại lặng lẽ suy ngẫm về những điều vừa học được và thầm cảm ơn sự chỉ dẫn chu đáo và nhiệt tình của người bạn HHN...


(còn tiếp) ...


Sunday, July 13, 2014


Những bài học quá khứ của Đệ Tam Nhãn



Trời chưa sáng hẳn. Những giọt sương lạnh sớm mai còn đọng trên cành lá. Trên bầu trời những vì sao đang mờ dần. Bình minh ló dạng. Đoàn bảo tiêu lại bắt đầu di chuyển.

Tam Tiểu Thư:

-  Ông Tổng quản ơi, so sánh nhận xét của xã hội Phương Tây lúc bấy giờ và phần đàm luận của cuốn Tạp Thư về hiện tượng Blavatsky, thì tôi thấy có một sự khác biệt khá lớn lao. Tôi nghĩ bất cứ ai cũng có thể nhìn ra, là cuốn Tạp Thư của ông đúng là quá "pro" luôn đó. Nhưng càng suy nghĩ về vấn đề này, thì tôi lại càng thấy, dường như có một nghịch lý giữa lý thuyết và thực tế. Ông thử suy nghĩ từ từ mà coi, điều mà tôi nói với ông có đúng không? Những tài liệu về Huyền môn, đại loại như vậy, gọi là "Thư Phù Ếm Ðối" đề cập về Con Mắt Thứ 3 thì nhiều vô số kể. Những tài liệu này là sản phẩm hầu hết của người Á Châu. Ít nhất cho đến bây giờ, tôi chưa được đọc những tài liệu tương tự của người Âu Mỹ. Rất có thể họ cũng có một số tài liệu nào đó mà tôi chưa có cơ hội được biết đến. Thế nhưng trên thực tế thì những người có khả năng tiên tri, hay có Con Mắt Thứ Ba gì đó, thì toàn là người Âu Mỹ không à! ... Họ có Con Mắt Thứ Ba hay không, và loại nào thì quả thật tôi không biết, nhưng ông coi cái danh sách những người nổi tiếng thế giới về lãnh vực này họ thuộc về quốc gia nào nhé:

- Vanga (Bulgaria).
- Cyril Hoskin (Anh).
- Blavatsky (Ukraina).
- Nortradamus (Pháp).
- Barbara Ann Brennan (Mỹ).
- Theresa Avila (Tây Ban Nha).

-  Đó, ông coi có tự ái dân tộc không chứ? Hay là mình thêm tên của Khổng Minh người Trung Quốc vào danh sách này được không vậy ông? Xin ông và độc giả cho ý kiến. À, khi xem kỹ, và cố nhớ xem có ai là người Việt Nam hay không, thì tôi mơ hồ nhớ ra rằng, có một nhân vật không biết là có thật hay không, mà người ta thường nhắc tới là Trạng Trình. Tuy nhiên công trình của ông gọi là Sấm Trạng Trình thì có vẻ mang nặng tính chất Huyền sử. Ðó chỉ là ý kiến riêng của tôi. Tôi có ý kiến này muốn trình bày ra mà ngại quá.

Ông Tổng Quản:

-  Từ nào tới giờ tôi có thấy cô sợ ai đâu. Hơn nữa mình là người trong nhà cả mà, cô có gì cứ nói ra đi, có gì đâu mà ngại!

Tam Tiểu Thư:

-  Không! Không phải là tôi sợ ông! Tôi sợ là sợ mấy ông khoa học gia, mấy ông nhà báo, biên tập viên các đài truyền hình, nói chung là các vị làm công việc thông tin đại chúng … Ông lại gần đây, tôi nói nhỏ cho ông nghe, chỉ một mình ông nghe mà thôi nha! Họ mà tố cáo tôi là Racist trên thông tin đại chúng thì chắc chắn là ế chồng!

Ông Tổng Quản:

-  Rồi, tôi nghe đây Tam Tiểu Thư.

Tam Tiểu Thư:

-  Tôi tuy là phận nữ nhi làm nghề bảo tiêu, sống bằng nghiệp đao kiếm; đại khái là chẳng cao quý hơn ai. Nhưng được cái là “ Riêng một biên thùy – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Tôi nghĩ thế này, tôi chẳng thấy người Á Châu nào thực sự nổi tiếng về Con Mắt Thứ Ba, tất cả những người nổi tiếng đều là Âu Mỹ … vậy thì lý thuyết của bà Blavatsky hình như hơi bị đúng thì phải? ... Ông đồng ý với tôi không?

Ông Tổng Quản:

-  Hiện tượng này lâu nay thực sự cũng chẳng có ai thống kê cả. Có thể cô là người duy nhất nói ra vấn đề này. Coi chừng cô bị thông tin đại chúng xếp vào loại lang băm, lừa đảo. Nhưng may mà cô chỉ nói với mình tôi thôi, không ai nghe thấy nên chắc không sao. Chúng ta phải công nhận rằng trong lãnh vực này, người Âu Mỹ có 5, 6 điểm, người Á Châu 0 điểm. Bức tranh thực tế thực sự là ảm đạm. Tuy nhiên quý độc giả cũng như Tam Tiểu Thư đừng quá thất vọng. Đây chỉ mới là vòng sơ kết, tất nhiên cơ hội vẫn còn ở đằng trước.

   Cuốn Tạp Thư của tôi lại có một đường hướng khác hẳn. Có thể nói rằng nó không liên quan gì đến các hiện tượng mở Nhãn nói trên. Trước nhất, nó có hẳn một lý thuyết về cấu tạo các Thực thể, nó cho biết tính chất Cơ học của các Tâm, các Sắc, của tất cả các Thực thể, ở tất cả các Cảnh giới mà Thực thể bất kỳ nào đó đang hiện hữu. Trên cơ sở này, có thể nói là không quá đáng, ai đó có ý định nghiêm túc để học hỏi và thực hành vấn đề mở Đệ Tam Nhãn, dường như nằm trong tầm tay. Ðó là cái khác biệt mà các vị có Đệ Tam Nhãn nói trên không làm được. Nếu thực sự họ có Đệ Tam Nhãn, thì họ cũng chẳng có một kỹ thuật nào để tập luyện cho chính mình, trừ trường hợp Lobsang Rampa. Do đó trên lý thuyết cũng như trên thực tế, việc mở Nhãn cho ai đó là một việc không thể thực hiện được. Vì thực sự họ chẳng có một lý thuyết cũng như một kỹ thuật nào cả.  


   Trường hợp Lobsang Rampa thì ông sử dụng một miếng gỗ không rõ nguồn gốc được xử lý bằng các loại dược thảo để cấy vào trước trán. Vậy nếu ai đó có ý định là mở Đệ Tam Nhãn theo cách này, thì tìm đâu ra miếng gỗ, tìm đâu ra các dược liệu để xử lý. Nếu có tìm được miếng gỗ theo đúng yêu cầu này, thì cũng chẳng có một chuyên gia mổ xẻ nào, dù là một bệnh viện lừng danh, có thể thực hiện ca mổ không tiền khoáng hậu này. Cuốn Tạp Thư lại khác. Nó ở trong tầm tay của hầu hết những người có một tri thức luận lành mạnh vì ai cũng có thể hiểu được, không đòi hỏi phải sử dụng những phương tiện kỳ lạ đặc thù, tốn kém … Người ta chỉ cần học hỏi lý thuyết, học hỏi kỹ thuật sau đó là thực hành … Cuốn Tạp Thư có ghi lại một số người từng làm theo cách này và đã đạt được những kết quả khả quan. Họ thấy biết trước một số vấn đề linh tinh … nhưng sau đó vì một số lý do như sức khỏe, công việc làm, gia đình … nên họ không tiếp tục tập được. Nói trên quan điểm người tu Thiền Định, thì người ta bảo rằng những người nói trên đã cạn phước báu.

Tam Tiểu Thư:

-  Ông Tổng quản ơi, nếu đúng vậy thì cuốn Tạp Thư của ông sẽ là niềm tin và hy vọng cho những người bình thường như tôi cũng như những quý độc giả đang đọc những dòng chữ này. Cái mà tôi thích nhất là cuốn Tạp Thư của ông không đòi hỏi những điều kiện gì quá khó khăn phức tạp mà một người bình thường như tôi khó có thể đáp ứng. Còn chuyện học lý thuyết, rồi thực tập thì là “chuyện bình thường ở huyện”. Học bộ môn nào mà chẳng thế. Nói tóm lại, khi tôi biết là việc mở nhãn có thể thực hiện thành công trong tương lai, hay chí ít là nó nằm trong tầm tay của ai đó có hứng thú với bộ môn này thì rất có thể người Á Châu sẽ lập lại được tỉ số.

Ông Tổng Quản:

-  Tôi biết những gì đang nói với cô đây khô khan không hấp dẫn, nhưng cô nên chịu khó tiếp tục tìm hiểu một số vị nữa có liên quan đến Đệ Tam Nhãn khi cô bắt đầu học lý thuyết và thực tập. Điều này sẽ giúp cho mình học hỏi được những kinh nghiệm của người đi trước và tránh được những sai lầm không đáng có. Những bài học của quá khứ này, theo tôi nghĩ rất quý giá. Cô thử suy nghĩ lại trường hợp của BlavatskyBarbara Ann Brennan. Thực sự không thể nói là họ mở Nhãn được. Dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận, là có một cái gì đó sinh hoạt ở bên trong cơ thể hai người này. Do đó họ mới có những khả năng mà lúc bình thường họ không hề có. Còn trường hợp Lobsang Rampa, nếu căn cứ vào truyền thống Phật giáo thì cũng không thể bảo là đó là hình thức của Đệ Tam Nhãn. 

Tam Tiểu Thư:

-         Ông Tổng quản à, hai ngày trước tôi có chịu khó ngồi đọc Vi Diệu Pháp; tài liệu chính quy đàng hoàng đó nhen ông, thì không thấy chỗ nào đề cập tới cách mở Đệ Tam Nhãn bằng phương pháp giải phẫu như Lobsang Rampa đã thực hiện hết.

Tổng Quản:

-         Thì đúng như vậy nên người ta cũng lúng túng, không biết nên gọi trường hợp của Lobsang Rampa như thế nào cho đúng. Mặt khác, thần thông Phật giáo không đề cập tới vấn đề mượn hoặc sử dụng thân xác vật chất của người khác. Chắc ai cũng biết, truyền thống Phật giáo có hẳn một tài liệu, gọi là Giới. Đó thực sự là một bộ luật khá chặt chẽ, quy định người tu phải ứng xử như thế nào là đúng. Do đó việc làm nói trên là của Phật giáo hay là của trường phái nào khác thì có lẽ chưa có câu trả lời dứt khoát.

Tam Tiểu Thư:

-         Tôi không ngờ tu hành mà cũng có luật pháp. Tôi cứ tưởng là nếu tu hành thì cứ sống thư thả chẳng có gì ràng buộc. Ông nói cũng đúng, tất cả những trường phái chính quy như: Công giáo, Phật giáo, Hồi giáo … họ đều có những kỷ luật rất là khắt khe, mà người ta thường gọi là giữ Giới. Bây giờ ông nói cho tôi về Lobsang Rampa đi.

Ông Tổng Quản:

-  Cyril Henry Hoskin là một người Anh, sanh vào ngày 8/4/1910. Ông còn có một cái tên nữa là Tuesday Lobsang Rampa. Lobsang Rampa tự nhận mình là linh hồn của một vị Lạt Ma người Tây Tạng, sử dụng thân xác vật chất của người Anh nói trên.


-  Vào năm 1956, cuốn sách nổi tiếng sau này là The Third Eye được xuất bản. Bản thảo của cuốn Ðệ Tam Nhãn này, lúc đầu bị các nhà xuất bản nổi tiếng của Anh Quốc từ chối. Lý do dễ hiểu là các học giả người Anh Quốc khi đọc bản thảo này, họ nghi ngờ về tính chất nhất quán của tài liệu. Nhưng đến khi xuất bản, nó trở thành cuốn sách bán chạy nhất thế giới. Một tài liệu về văn chương đã nhận xét "Tác phẩm này là một công trình của nghệ thuật". Phần quan trọng nhất của tác phẩm này là việc sử dụng kỹ thuật giải phẫu để làm cho Đệ Tam Nhãn xuất hiện. Tài liệu này có ghi lại sơ lược như sau:

   "Một dụng cụ giải phẫu đã đâm thấu vào trong xương. Một mảnh gỗ nhỏ, rất cứng, đã được xử lý bằng lửa và thảo dược, cuối cùng được nhét vào lỗ hổng nhỏ ở trên trán của tôi. Tôi cảm thấy như ngứa ngáy, tôi cảm thấy như kích thích ở vùng mũi. Tôi có một cảm giác gì đó không rõ. Thế rồi bỗng nhiên tôi cảm thấy chói lòa, có lúc cơn đau trở nên dữ dội, rồi giảm đi từ từ, cuối cùng cơn đau mất hẳn và thay thế bởi vòng xoắn màu sắc. Thế rồi vị Lạt Ma bảo với tôi rằng: “Em là người cùng nhóm của chúng tôi. Từ nay đến hết cuộc đời, em sẽ nhìn thấy sự thật của mọi người, chứ không còn nhìn thấy cái vẻ giả tạo của mọi người".

    Chính bản thân Cyril Hoskin cho biết cơ thể của ông đã bị linh hồn của Lobsang Rampa chiếm giữ. Trong một tài liệu ông có kể lại diễn tiến như sau: "Trong lúc leo lên một cái cây Linh Sam để chụp hình một con Cú, thì ông bị té xuống dưới đất. Trong cơn chấn động và khi lấy lại được phần nào ý thức thì ông thấy một vị tu sĩ Phật giáo mặc áo màu vàng đi về phía ông. Vị tu sĩ có nói với ông là Rampa muốn sử dụng thân xác vật chất của ông và Hoskin đồng ý. Thân xác vật chất của Rampa hiện tại rất tồi tệ khó sử dụng tiếp tục được nữa. Do đó, Rampa sử dụng phương pháp Di Trú Linh Hồn để đến cư trú tạm trong cơ thể vật chất của Hoskin."

   Sự thật về Rampa có rất nhiều thông tin chỉ trích. Năm 1972, một người Pháp đã có viết thư cho Ðại Lạt Ma để tìm hiểu về nhân thân của ông. Ông nhận được sự hồi đáp từ văn phòng của Ðại Lạt Ma như sau: "Chúng tôi hân hạnh thông báo với ông rằng chúng tôi không hề đặt tin tưởng vào những tài liệu được viết bởi vị nào đó gọi là Dr. Lobsang Rampa. Công trình này mang tính chất hư cấu, tưởng tượng cao độ". Mặc dù những tài liệu này được cảnh báo là hư cấu, nhưng đồng thời cũng tạo ra hệ quả marketing quảng cáo tích cực tại Ấn Ðộ.

   Ông viết khoảng 20 tài liệu. Tài liệu đặc biệt nhất là Living With The Lama được mô tả là do chính con Mèo Thái Lan đã đọc cho ông viết. Báo chí của Anh quốc tố cáo ông là lang băm là đối thủ của thẩm mỹ.

Tam Tiểu Thư:
-  Còn Barbara Ann Brennan thì sao ông?

Tổng Quản:
-  Cũng trong khuôn khổ của đề tài này, rất mong quý độc giả cùng tìm hiểu thêm một tác giả khác rất nổi tiếng ở bên Mỹ và khắp thế giới đó là Barbara Ann Brennan.

Barbara 1973
Barbara Ann Brennan sinh năm 1939, quốc tịch Mỹ. Bà đỗ bằng Cử nhân Khoa học Vật lý năm 1962. Hai năm sau, bà đỗ bằng Tiến sĩ Vật lý Khí quyển và làm việc tại cơ quan Nasa với tư cách là nhà Vật lý Khí quyển. Sau đó bà đỗ bằng Tiến sĩ về Triết học và Thần học.

Tài liệu làm cho bà nổi tiếng nhất là cuốn Bàn Tay Ánh Sáng, được in 1 triệu cuốn và dịch ra 22 ngôn ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, bà còn được học về Trường Năng Lượng và cách chữa bệnh sử dụng Trường Năng Lượng. Trong tài liệu Hands of Light, chính bà xác nhận là có một linh hồn nào đó đã mách bảo bằng lời nói và cho nhìn thấy một số vấn đề, cụ thể là Hào quang, linh hồn đó ở bên Kenya và có hẳn một cái tên.

-  Chúng ta đã duyệt xét một số hiện tượng điển hình nổi tiếng trên thế giới ít nhiều liên quan đến vấn đề Đệ Tam Nhãn. Chắc chắn Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả - đã học hỏi được những kinh nghiệm quý báu của những người đã đi trước. Do đó, dễ nhìn ra những thuận lợi, những khó khăn khi tự mình học hỏi và tập luyện Đệ Tam Nhãn. Những tài liệu trên rất mong được quý độc giả quan tâm vì tính chất điển hình của nó. Người ta không thể ngờ được rằng, có quá nhiều loại Đệ Tam Nhãn nhưng sự thật lại không phải là Đệ Tam Nhãn. Nếu nhìn ở góc cạnh chuyên môn thì người ta cho rằng đó là Đệ Tam Nhãn giả hiệu. Chúng tôi cũng xin lưu ý quý độc giả, quan điểm này được nêu ra là dựa trên cơ sở tài liệu Vi Diệu Pháp.

Tam Tiểu Thư:

-  Vậy có nghĩa là không phải cứ cái gì thấy biết được mà không sử dụng đến hai con mắt bình thường, thì đều là Đệ Tam Nhãn hết, phải không ông? Tôi cũng cám ơn là ông đã nêu ra nhiều quan điểm để tôi và quý độc giả có thể lựa chọn cái gì đó phù hợp cho mình. Nhưng nói thiệt tình nhe ông, nếu chỉ muốn biết chừng nào lấy chồng thôi mà phải học nhiều như thế thì thà đừng lấy chồng còn hơn, cho nó đỡ rắc rối cuộc đời …


(còn tiếp) ...

Ghi chú: Các nhân vật: Ông Tổng Quản, Tam Tiểu Thư và cuốn Tạp thư được xây dựng trong câu chuyện chỉ là hình ảnh hư cấu để nói lên quan điểm hoặc phương pháp cũng như sự trải nghiệm của một người tu thiền định. Đây chỉ là một câu chuyện giả tưởng. Xin quý vị lưu ý