Sunday, March 30, 2014





Kính thưa quý độc giả!

Hôm nay HHN sẽ giới thiệu với quý vị một bài chi tiết về diễn tiến của "Kỹ Thuật Xuất Hồn". Theo suy nghĩ của HHN, bài viết này là một trong những bài đặc sắc nhất. Những gì được viết ra không đi theo lối mòn của những người chuyên nói lý thuyết, mà nó mô tả sống động về tiến trình xuất hồn của “người thực việc thực”. HHN tin rằng nếu quý vị là người thực hành Thiền Định lâu năm và quan tâm luyện tập xuất hồn, sẽ nhanh chóng nhận ra chiếc chìa khóa thực hành. Cũng theo dự đoán của chúng tôi, sẽ có nhiều người thành công khi thực hành theo “Bí Kíp” này.

Những người tiên phong mở đường đã mất cả cuộc đời mình để tìm ra lối đi và đã thử đi thử lại phương pháp này nhiều lần trước khi quyết định để HHN chia sẻ cùng quý độc giả.

HHN xin chắp tay đảnh lễ và vô cùng biết ơn người đã khai phá con đường và để lại bản đồ cho hậu thế!

Kính chúc quý độc giả tập luyện thành công, tự mình làm chủ sự sống chết và vượt thoát khổ đau của kiếp người!

Xin cảm ơn quý vị!

p/s: Nếu quý vị đang thực hành và có bất cứ thắc mắc nào, xin vui lòng chia sẻ kinh nghiệm cùng HHN. Quý vị có thể post bài chia sẻ trực tiếp vào phần "Comments" (bình luận) hoặc gởi thư vào hộp thư: thien.hhn@gmail.com


Sao Mai say:
 Chào chị HHN, em thấy chuyện luyện tập  Xuất Hồn là một công việc rất quan trọng và thực tế cho con người. Hôm nay em xin hỏi chị  về chi tiết của Kỹ Thuật Xuất Hồn này, xin chị chia sẻ cho em cùng quý độc giả có được không ạ?

HHN say:
 Được thôi, em ạ. Nếu muốn hiểu về kỹ thuật này, có hai vấn đề chủ chốt mà em cần tập trung chú ý:

1. Giải quyết vấn đề cái Tôi.
2. Sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định để Xuất Hồn hoàn toàn có ý thức (fully awareness).


Sao Mai say:
Em thấy là chị hay nói đến  chuyện Cái Tôi này. Chị có thể cho biết lý do vì sao không? Nó có liên quan đến vấn đề gọi là  tà đạo do đi ngược lại chuyện Vô Ngã của Phật Giáo không?

HHN (mỉm cười) say:
Chị hay nhắc lại vấn đề cái Tôi, vì nó là một trong những yếu tố then chốt đưa đến thành công hay thất bại trong việc Xuất Hồn. Rất mong Sao Mai và quý độc giả không nghĩ là HHN có ý định quảng bá, bảo vệ chủ thuyết Nhân Thể Luận, còn gọi là thuyết Hữu Ngã (có một cái Tôi thường xuyên). Trên thực tế thuyết Hữu Ngã đã xuất hiện và có mặt song song với thuyết Vô Ngã (không có một cái Tôi thường hằng). Trong thời gian này còn phải kể đến thuyết Duy Tâm và Duy Vật. Nhiều học giả cho là Ngài Sakya Muni chủ trương thuyết Trung Dung, nhưng cũng có học giả cho là Ngài Skya Muni chủ trương thuyết Vô Ngã.
Sao Mai say:
Chị nói đúng rồi. Chính quan điểm này đã làm cho ai đó tự cho mình là phật tử, khi tu Thiền Định cũng như tập Xuất Hồn trở nên lúng túng.Thật vậy, là một tín đồ Phật Giáo tất nhiên tin một cách tuyệt đối vào: Vô Thường, Vô Ngã và Khổ Não.

HHN say:
Chúng ta hãy nhìn vào thực tế. Nếu bây giờ mình quyết định tu Thiền Định, quyết định luyện tập Xuất Hồn mà không công nhận tiền đề là có một cái Tôi; thì các thao tác, diễn tiến sẽ trở nên lúng túng. Em có nhận ra một điều là chúng ta rất ít thấy những kết quả tích cực được tường thuật từ những người tu Thiền Định Phật Giáo ở Việt Nam cũng như trên thế giới nói chung không?

Sao Mai say:
Theo em nghĩ thì chẳng ai quan tâm là tu trường phái nào. Quan trọng là nếu ai đó tu mà có những kết quả tích cực, thì đầu tiên là những người tu khác chắc chắn sẽ tìm đến nhờ cậy, sau đó là người dân giã cũng sẽ tìm đến vì ái mộ hay nhờ vả.

HHN say:
Nói một cách kinh điển, chỉ cần đắc Tứ Thiền Hữu Sắc là đã có những khả năng khác thường. Nhưng thực tế, cũng có những người bỏ công, bỏ của, bỏ thời gian … đi tìm những vị tu tịnh thất trong rừng sâu núi thẳm, vì nghe dân gian đồn đãi đã tịnh thất 9, 10 năm, thậm chí không giao tiếp với ai cả. Có những vị tu mà khi muốn gặp còn khó hơn nữa. Em phải đi qua nhiều chốt kiểm soát thật sự, bị phỏng vấn nhiều lần … mà vẫn có thể bị từ chối không tiếp. Những hiện tượng nói trên làm cho người ta phải suy nghĩ rằng, chủ nghĩa Phật Giáo có cái gì đó đã biến dạng trên thực tế.

Chúng ta đã có cơ hội quan sát các hiện tượng: Giấc mơ, cận tử, tái sinh … ở bất cứ hiện tượng nào, cũng thấy sự hiện diện của cái Tôi không thay đổi, di trú từ đời này qua đời khác. Những cái Tâm là một thành phần của cái Tôi, có lẽ cũng không thay đổi. Người Trung Quốc thường nói: "Non sông dễ đổi, bản tánh khó dời". Câu nói này phản ánh kinh nghiệm thực tế về cái Tâm và tính cách thường hằng của cái Tôi.

Sao Mai say:
Em đang rất tò mò về chuyện xuất hồn mà chị đang đề cập. Chị có thể mô tả một mô hình xuất hồn cho em nghe được không? Ý em nói là những người đã thực hành xuất hồn thành công thì họ đã tự thuật lại diễn tiến, trình tự, thao tác của chính mình trong việc xuất hồn như thế nào?

HHN say:
Sau đây chúng ta thử xem một tài liệu tự thuật về diễn tiến Kỹ Thuật Thiền Định để tạo ra hiện tượng Xuất Hồn nhé.


Hôm nay là một buổi công phu.
Nhật ký một buổi thực tập Thiền Định như bao nhiêu lần khác.
Chỉ khác một điều là:

Ta sẽ sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định để tạo ra hiện tượng Xuất Hồn.

Ðầu tiên là phải Nhập Định được. Ta sử dụng công thức quen thuộc và duy nhất là:  

"Chú tâm vào một vật duy nhất"

(sau khi đã điều thân, có nghĩa là chọn một vị thế nào phù hợp nhất, thư giãn nhất đối với ta lúc bấy giờ, rồi Chú Tâm vào điều hòa hơi thở nhẹ nhàng).



Ta chọn Đối Tượng để Quán Tưởng là Ngôi Sao 6 cánh

(có nghĩa là 2 hình tam giác ngược chiều nhau tạo ra ngôi sao 6 cánh).
Hoặc hình một bông hoa, một chấm nhỏ hình tròn.
Hình ngôi sao 6 cánh sẽ làm cho ta tập trung nhiều nhất trong quá trình quán tưởng.

1. Chú Tâm vào Đối Tượng này bằng trí tưởng tượng,

2. Tập trung vào Đối Tượng này mạnh mẽ và liên tục,

3. Ta cố nhìn rõ đối tượng này và cố kéo dài thời gian nhìn thấy đối tượng này.

4. Ta biết là tôi đang sử dụng hai chi Thiền:

    * Tầm: Là đi tìm, và 
    * Tứ: Là giữ gìn và chau chuốt Đối Tượng.

5. Liên tục tăng cường độ chú Tâm.

Thế rồi ta mất ý thức lúc nào không biết, cụ thể là bị mê một thời gian không rõ là bao lâu. Bỗng dưng ta ý thức được hoàn toàn các vấn đề. Tâm trí đứng im không nghĩ gì cả. Điều kỳ lạ là muốn nghĩ cũng không nghĩ được. Thấy mình rất sáng suốt, nhưng lại mất khái niệm về không gian, thời gian, không biết mình là nam hay nữ. Ðây là trạng thái được gọi là * Nhất Tâm. Ta mừng rỡ đạt được trạng thái nhẹ nhàng thanh thoát này. Nó lan truyền trong tinh thần cũng như thể chất. Hạnh phúc này không có từ ngữ thế gian nào có thể mô tả được.

Khi ta càng tiếp tục Tập Trung vào Đối Tượng Quán Tưởng, cường độ hạnh phúc lại càng gia tăng. Ta có thể hình dung trong một ngày thời tiết cực kỳ nóng nực, vô cùng là nóng, chúng ta như một cục bông gòn khô khan bỗng dưng được tẩm nước mát. Ta cảm thấy vô cùng dễ chịu, số nước lại càng được tẩm vào nhiều hơn nữa. Cuối cùng chúng ta tắm mát trong một chiếc hồ trong vắt dưới bóng mát bên sườn núi. Ðây là cách mô tả khá kinh điển về yếu tố "Lạc" trong Sơ Thiền Hữu Sắc.


Tắm mát mãi trong một chiếc hồ dưới bóng mát bên sườn núi,
 cảm giác này lâu ngày sẽ nhàm chán. Chúng ta muốn tìm nguồn hạnh phúc tế nhị tinh vi hơn nữa.

Ðây chính là Tiền Đề về Tư Tưởng làm cho người tu Thiền Định muốn tiến lên cảnh Nhị Thiền Hữu Sắc.



Ðịnh lực của người tu Thiền Định trong chiều hướng tích cực, càng ngày càng trở nên giàu có. Nó giống như một chủ tài khoản cứ cho thêm tiền vào mà không rút ra tiêu xài. Mặt khác yếu tố "Lạc", thú vui hạnh phúc, khoái lạc càng ngày càng trở nên tế nhị, tinh vi. Tiến trình của hai yếu tố nói trên trong chiều hướng phát triển tích cực, người ta đạt được đỉnh điểm chính là Tứ Thiền Hữu Sắc. Đây là biên giới cuối cùng của cảnh Hữu Sắc. Những cử động của tinh thần ở tại lớp Thiền Định này, người thế gian gọi đó là Thần Thông.

Thần Thông, Thần Lực phát triển ở mức độ cao nhất và việc Xuất Hồn cũng nằm trong lớp Định này.



Như phần mô tả ở trên, việc đầu tiên là phải Nhập được Định.
 Sau đó phải sử dụng Quán Tưởng vào một Đối Tượng Duy Nhất để nâng cao chất lượng một lớp Định.  

Khi ta đã hoàn tất một lớp Định nào đó, thì ta lại  tiếp tục sử dụng Quán Tưởng để tiến qua một lớp Định mới.

Các lớp Định càng tăng trưởng, thì các Thiền Chi càng giảm thiểu. 

Tại Tứ Thiền Hữu Sắc, kiểm soát chỉ có hai Thiền Chi là "Hỷ" và "Lạc",
có nghĩa là mừng rỡ vì đạt được Thiền Định, "Lạc" là hạnh phúc chế ngự tất cả.



Cũng như trong các lớp Định khác, ta phải làm cho hạnh phúc của lớp Thiền này phát triển hơn, mạnh hơn nữa. Chính việc phát triển của Tâm "Lạc" này sẽ làm tan vỡ một số phần của cấu tạo Sắc Dục Giới. Thật vậy, từ 28 yếu tố Sắc của cảnh Dục Giới, nay cấu tạo Sắc của ta chỉ còn 18 đến 23. Tại sao lại có con số này? Vì ta đang ở giữa ngưỡng cửa của Sắc Giới và Vô Tưởng Định. Ta không còn nhu cầu thèm ăn, khát nước, không còn nhu cầu tình dục, dường như tiến trình sinh học trong cơ thể vận hành trong trạng thái cầm chừng.

Trong trạng thái ngập tràn hạnh phúc và niềm vui do đỉnh điểm của lớp 
Tứ Thiền Hữu Sắc mang lại,

 TA biết rõ là TA đang ở trong cơ thể vật lý.
Trong lúc đang ở trong cơ thể vật lý, thì ...

 TA nghĩ như thế này,
 TA Tập Trung vào suy nghĩ như thế này,
 Ta liên tục Nghĩ như thế này:
TA NGHĨ là TA hiện hữu đối diện với thân xác vật lý,
khoảng cách là 2, 3 thước.



Cho đến một lúc nào đó, Ta biết là Ta đang hiện hữu đối diện với thân xác vật lý,
 Ta tiếp tục Tập Trung, Quán Tưởng hình dung một cách mạnh mẽ.
 Hiện tượng đối diện với thân xác vật lý, càng ngày càng trở nên rõ ràng.
 Ý thức về việc ta đối diện thân xác vật lý, càng ngày càng mạnh mẽ
 và kéo dài lâu hơn. Cho đến một lúc ta không cần phải cố gắng, thì
 Ta vẫn thấy mình đối diện với thân xác vật lý.


Sao Mai say:

Chị diễn tả mô hình xuất hồn cực kỳ sống động. Thật là hay quá. Nhưng chị cho em hỏi làm cách nào để khẳng định chính xác là ta đã ra khỏi thân xác? Biết đâu đó chỉ là do sự tưởng tượng thôi?

HHN say:



Ta nhận biết là tôi ở ngoài thân xác vật lý là nhờ vào chiều không gian của tôi và thân xác vật lý ngược chiều nhau. Chính điều này làm tôi tin tưởng là ta đã ở ngoài thân xác vật lý, vì chiều không gian của ta và thân xác vật lý đã khác nhau.

Sao Mai ngồi yên lặng. Vào năm cuối cùng trong cuộc đời vĩ đại của Sakya Muni, tại điện thờ Capala, thành Vaishali, đức Phật đã tuyên bố: "Các Tỳ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các ngươi. Các Hành là Vô Thường. Hãy tinh tấn lên để tự Giải Thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ." Hình ảnh thánh tích Kushinagar và rừng cây Sa La hoang vắng, nơi Sakya Muni nhập diệt đang tràn về trong ký ức. Giọt nước mắt của cô đã rơi xuống khu rừng Sa La trong một buổi chiều nắng tắt.


Ghi chú:

Để hiểu kỹ hơn về các cảnh giới thiền Hữu sắc, thiền Vô sắc và tâm Siêu thế, xin quý vị tham khảo những bài viết: "Các loại tâm vương trong Vi Diệu Pháp" được đăng trong những tháng trước của trang blog này.

Xin cảm ơn quý vị đã ghé thăm trang blog và hy vọng có dịp được trao đổi cùng quý vị qua phần bình luận hoặc hòm thư: thiendinh.hhn@gmail.com.

Một lần nữa cảm ơn quý vị độc giả và kính chúc quý vị gặt hái được nhiều thành công và an lạc!



Thursday, March 27, 2014


Vịnh Tam Tạng quét Lôi Âm Tự

Lúc đến Lôi Âm đã quá chiều,
Phật, Yêu, Tiên, Thánh ... phái Vô chiêu,
Vô chiêu, hữu sắc  tay đành bó,
Tiến thoái lưỡng nan lúc xế chiều.

Thiền Định không phải là đặc sản duy nhất của trường phái Sakya Muni. Ai trong chúng ta cũng biết nó có trước thời của Sakya Muni từ lâu lắm rồi.

Nhân loại đã từng sử dụng kỹ thuật này ở khắp nơi trên thế giới và cho nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, nếu có ai đó cho rằng chỉ có Thiền Định của trường phái Phật Giáo là chính thống và chân chánh, thì điều này cũng cần suy xét lại cho chính xác. Lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử các bộ môn học thuật nói riêng là một tiến trình biện chứng. Kiến thức, Kỹ thuật, Tôn giáo … là một “Melting pot” .

Thiền Định là một vườn hoa có nhiều chủng loại, nhiều màu sắc; trong đó “mỗi hoa một vẻ, mười phân vẹn mười”. Vấn đề đẹp xấu trên thực tế chỉ là quan điểm chủ quan của một cá nhân hay một tập thể trong một thời đại nào đó mà thôi. Mặc dù vậy, bản chất của Thẩm Mỹ Học là có thật, chỉ khác nhau về hình thức biểu hiện.

Trong những bài viết trước, HHN đã cống hiến quý độc giả về vấn đề Nhập Định. Quý vị nào thực sự đã Nhập Định được, biết về mùi vị và trạng thái Nhập Định, thì thấy vài chục trang giấy trên hình như là chưa đủ. Nó còn thiếu và thiếu nhiều lắm. Rất mong quý độc giả hoan hỉ lượng thứ. Tất nhiên là đối với quý độc giả không quan tâm, không thích thú đến vấn đề này, thì sẽ thấy nó quá thừa; “bàn mỗi chuyện Nhập Định mà kéo dài đến mấy mươi trang giấy”.

Cuộc hành trình đến Lôi Âm Tự phải tính bằng năm, bằng nhiều năm hoặc nhiều kiếp người mà chưa chắc đã tới được. Lý do để giải thích cho khó khăn này rất dễ hiểu. Đó là vì “Lôi Âm Tự” nằm ngay trong Tâm của chính bạn và tôi, mà Tâm lại là cái gì xa lạ với mọi người. Thậm chí có người cả đời cũng chẳng có cơ hội nghe nói hay biết về Tâm là gì. Bộ môn Tâm Thần Học thì quan niệm tâm cũng quan trọng như não, tim, bao tử (Manuel de spychiatrie - Payot Paris: “L’âme fait autant partie de l’eâtre humain que le coeur, le cerveau ou l’estomac”).

Tôn Hành Giả - biểu tượng của Trí Tuệ - có khuyên Tam Tạng không nên vào chùa Lôi Âm quét rác nhưng Tam Tạng lại không nghe, nhất định tìm Lôi Âm Tự ở cảnh thế gian Dục Giới!

Do đó khi Nhập Định được thì có nghĩa là chúng ta đã bước ra khỏi ngưỡng cửa của cửa khẩu thế giới con người. Đến đây thiết tưởng chúng ta cũng nên nhắc lại về vấn đề Nhập Định một cách cụ thể hơn như sau: Nhập định là sử dụng một loại kỹ thuật nào đó để làm mất đi ý thức một cách tạm thời. Nếu quan niệm như vậy, thì giấc ngủ được coi như một loại Nhập Định thụ động. Mặc dù khi ngủ người ta hoàn toàn mất đi ý thức, nhưng nếu tự quan sát cấu tạo Tâm khi ngủ sẽ thấy cấu tạo Tâm Dục Giới vẫn còn nguyên vẹn. Hay nói một cách khác, tâm lý chúng ta không đổi, tâm tánh, kiến thức suy nghĩ vẫn giống như vậy. Mình vẫn thấy mình là mình v.v...

Trạng thái cấu tạo Tâm của Thiền Định lúc đầu cũng có cùng một cơ sở. Ban đầu, khi Nhập Định, ý thức bị mất đi nhưng cấu tạo Tâm chưa khác biệt với lúc có ý thức là bao nhiêu. Sau đó số lượng Tâm sẽ giảm đi từ từ. Chính vì vậy người ta thường nói: Người làm sao của chiêm bao làm vậy”.

Khi vừa ra khỏi cảnh thế gian Dục Giới, sẽ có quá nhiều hướng đi và chọn lựa. Chúng ta bối rối không biết phải làm sao vì chúng ta hoàn toàn thiếu kinh nghiệm về loại công việc này.

I. THIỀN ĐỐN NGỘ:

Ở Việt Nam, chúng ta thường nghe về truyền thuyết kể rằng có ai đó chỉ nghe một tiếng "thét", bị một cái "đánh" hay nghe một câu nói liền Ngộ, Giác Ngộ và tức khắc thành … Phật. Có ai trong chúng ta được hân hạnh thực sự biết đến trường hợp nào như vậy chăng? Thực tế chúng ta hay gặp chuyện hoàn toàn ngược lại. Có một vị sau khi tu thiền hàng chục năm đã tâm sự: “Thấy mình như đi trong một ống cống tối đen”.

Truyền thống Tây Tạng cho chúng ta biết gì về vấn đề này?

Nếu nói về khoa học tự nhiên hay khoa học nhân văn, thì khi đi học dù ở Việt Nam hay ở nước ngoài, từ mẫu giáo cho đến tiến sĩ, tất cả những kiến thức này đều là sản phẩm trí tuệ của phương Tây. Chẳng có cái gì là của Châu Á hay Việt Nam cả. Thậm chí ngay cả chữ viết của chúng ta cũng là chữ La Tinh.

Nhưng với khoa học tạm gọi là Huyền Môn, Tâm Linh thì hoàn toàn đảo ngược. Chỉ riêng chữ ý thức, thì người Tây Tạng có đến 12 từ ngữ khác nhau. Người Tây Tạng xa lạ với từ ngữ phép lạ vì đối với họ thì phép lạ là một cái gì đó rất bình thường, thậm chí họ còn dùng nó để tạo ra mưa phục vụ nông nghiệp, hay coi đó như một nghề kiếm sống. Thiền Đốn Ngộ thực sự được người tu ở Tây Tạng thực hành trong nhiều năm. Những người này sống một mình trong căn phòng nhỏ xíu không có đồ đạc gì cả ở trên triền núi. 


Nhóm HHN đã có cơ hội gặp một vị tu theo cách này được 17 năm, thấy ông rất vui vẻ và bình thường khi đón tiếp nhóm. Alexandra David Ne’el là một học giả người Pháp, sống ở Tây Tạng và cả đời nghiên cứu về Tây Tạng. Người Tây Tạng gọi bà là “Hoa Sen Trắng”. Bà kể rằng có rất nhiều người ở Tây Tạng tu theo kiểu Thiền Đốn Ngộ như thế này cho đến lúc chết.

Với phần trình bày ở trên, không có nghĩa là nhóm
HHN phủ nhận không có trường hợp ngoại lệ. Rất có thể có những người thành công với Thiền Đốn Ngộ mà chúng ta chưa phát hiện ra. Riêng ở Việt Nam, nhóm HHN đã đi nhiều nơi trong nhiều năm, nhưng chưa bao giờ gặp được những trường hợp như người ta thường đồn đại. Thực tế, khi có dịp trao đổi với những vị sống trong Tịnh Thất theo cách nào đó, thì dường như những vị này rất dồn nén về tâm sinh lý. Để thử nghiệm, bản thân HHN đã từng sống nhiều tháng trong 1 cái cốc ở trong rừng. Nếu nhận xét này không đúng, mong quý độc giả tham gia đóng góp.

Để làm sáng tỏ thêm về vấn đề này; Nhóm
HHN xin đóng góp thêm một số thông tin. Thật vậy, những vấn đề liên quan đến Thiền Định thường có quá nhiều thông tin trái ngược nhau, thậm chí là trong cùng một trường phái. Điều này có thể do những lý do sau đây:

1. Ấn Độ không ghi lại lịch sử. Trong tác phẩm “L’etat actuel des etudes Boudiques”, tác giả Demie' Ville cho biết Ấn Độ không có sử. Như mọi người đều biết, thời của Sakya Muni không có chữ viết, kể cả vài trăm năm sau đó.

2. Tác giả Thích Minh Châu cho rằng trong những tài liệu của Phật Giáo truyền thống, có thể có những tài liệu ngụy tạo.

3. Một thực tế là người ta bàn về lý thuyết chỉ dựa vào các tài liệu, nên những cuộc tranh luận sẽ là bất tận.

4. Ngược lại, cho dù tu theo trường phái khác nhau, nhưng nếu thực sự thực hành thì họ dường như sẽ có những thành tích, những kết quả hoặc những khó khăn trở ngại giống nhau. Đây là chuyện mà những vị chỉ ngồi bàn về lý thuyết không ngờ tới.

5. Thật vậy, dù tu theo bất cứ trường phái nào, bất cứ ở đâu, dù là Việt Nam hay Tây Tạng, thì những người thực hành thường trao đổi với nhau về những biến cố xảy ra cho người tu Thiền Định như: Gặp người quen người lạ, nghe tiếng nổ bên tai, tiếng nổ trên đỉnh đầu, ngửi thấy mùi thơm, gặp những người Nam, người Nữ, những Vị theo hộ mình thuộc Cảnh Giới nào chưa rõ. Rất có thể đó là những Vị mà người tây tạng gọi là DAKINI, YIDAM. Nếu căn cứ vào chuẩn mực của Vi Diệu Pháp để tìm hiểu về nguồn gốc, thì có lẽ những vị này thuộc về Cảnh Thiên của Dục Giới. Ngoài ra người tu Thiền Định còn có thể gặp rất nhiều những biến cố khác.

Đọc đến đây, rất có thể có nhiều quý độc giả không ngờ rằng có nhiều người tu Thiền Định có những diễn tiến và những biến cố khá giống với mình. Mình không phải là người cô độc “... Buồn ơi ta đang lẻ loi! ...” thuộc dạng “độc cô cầu bại”.

II. ĐỊNH VÔ TƯỞNG:


Khi đề cập Định Vô Tưởng trong trường phái truyền thống của Phật Giáo, chắc có nhiều quý độc giả không đồng ý và cũng có quý độc giả không ngờ rằng Định Vô Tưởng cũng có mặt trong Phật giáo.

Chắc chúng ta còn nhớ rằng có hệ Phật Giáo quan niệm như sau: để tu Giải Thoát, nếu ta không tạo ra Nhân thì sẽ không có Quả. Đây là một cách cắt đứt vòng Sinh Tử Luân Hồi vô cùng dễ dàng và đơn giản, không đòi hỏi kỹ thuật cao siêu nào cả. Theo một số tập Luận thì vô hình chung đây lại là một loại TƯỞNG. Chúng ta cần để ý rằng từ ngữ Tưởng của Phật Giáo có nghĩa là Biết và Phân biệt. Không phân biệt Chủ Thể và Đối Tượng là quan điểm nghiêng về chủ thuyết Duy Vô TưởngĐịnh; có nghĩa là loại bỏ hoàn hoàn sự phân biệt Chủ Thể và Đối Tượng. Từ đó chúng ta có thể suy ra rằng:

 
- Vô Sở Hữu Xứ và Phi Phi Tưởng Xứ chính là một dạng Vô Tưởng Định.

- Đây là quan điểm của Tam Pháp Độ Luận (Tridarmakasastra). Nếu xét trên quan điểm này, thì những vị đạo sĩ Trung Hoa thuộc trường phái Lão Tử cũng tu theo Định Vô Tưởng. “Ngã quan kỳ phục” có nghĩa là ta xét cái chỗ trở về của Đạo. “Phục quy ư phác” nghĩa là trở về cái chỗ chất phác. Rõ ràng đó là tư tưởng không phân biệt Chủ Thể và Đối Tượng. Vì trở về với Đạo là một, là nguồn gốc của vạn vật. Cách làm như thế nào? Câu trả lời là: Hãy thực nghiệm mọi Tâm bằng tri giác Tâm Linh.

Nếu xét Vô Tưởng Định theo quan điểm nêu trên, thì rất nhiều trường phái của con người tu theo loại định này. Trường phái Vô Vi Việt Nam thì có quan niệm trở về với Đại Ngã (Tiểu ngã và Đại ngã hợp nhất). Mật giáo Tây Tạng thì tu sĩ giao phối với
DAKINI hợp nhất làm một. Việc thể hiện tuy có khác nhau nhưng mục đích thì giống nhau là xóa mờ đi ranh giới giữa chủ thể (là người ta) và đối tượng (là một vị nào đó được nhân cách hóa).



Tuesday, March 25, 2014



Nhập Định là một tiến trình phản tự nhiên cho nên rất khó thực hiện. Có Nhập Định được cũng dễ bị thối Định. Đây thực sự là một bài toán nan giải cho bất cứ ai theo đuổi bộ môn này. Chắc chúng ta còn nhớ trong Tây Du Ký, các vị Yêu Tinh thấy thực hiện việc Nhập Định khó quá nên đưa ra phương án ăn thịt Đường Tăng, với hy vọng tiếp thu được Định Lực của Đường Tăng qua ngàn năm tu luyện.
Nếu chúng ta chỉ xét ở góc cạnh kỹ thuật, thì Thiền Định được coi như là một kỹ thuật, một tiến trình, một thao tác của các Tâm. Mục đích để làm sao tạm thời làm ngưng các hoạt động của ý thức bình thường; nghĩa là làm ngưng việc sử dụng công cụ vốn có của nó là các quy luật cơ bản của tư duy. Chính quy luật cơ bản tư duy này là chiếc cầu nối để phản ảnh thế giới tự nhiên khách quan. Nay thực hiện kỹ thuật Nhập Định, chúng ta hy vọng tìm ra những con người khác; tìm ra những Thực Thể khác của chính mình. Hy vọng những Thực Thể này sẽ xuất hiện, kèm theo một hệ thống quy luật tư duy khác và đến được những Cảnh Giới khác tốt đẹp hơn.

Trên thực tế, việc Nhập Định có đáp ứng được niềm hy vọng của người tu Thiền Định hay không? Việc này vẫn còn là một ẩn số với đại đa số người tu Thiền Định. Thật vậy, thiếu sự hiểu biết sẽ đưa đến những lầm lẫn, mà tất nhiên chẳng ai muốn nó xảy ra. Để tìm hiểu vấn đề này, chúng ta cần phải xem xét lại và quy ước một số chuẩn mực. Dựa trên những cơ sở này chúng ta mới có thể hiểu được phần nào vấn đề.

A. NHẬP ĐỊNH:

Có rất nhiều hình thức Nhập Định hay những hình thức ít nhiều tương tự như NhậpĐịnh. Nhập Định có thể do sử dụng kỹ thuật, có thể do tình cờ ai đó trong lúc ngồi chiêm nghiệm. Nhập Định có thể do Định Lực của chính mình hoặc nhờ vào tha Lực. Nhập Định cũng có thể do sử dụng chất say hoặc do nhiều phương tiện hỗ trợ khác ... Chúng ta nên đặc biệt chú ý và ghi nhớ điều này: Nhập Định chỉ là điều kiện "cần", chứ không phải là điều kiện "đủ" để đưa chúng ta tới hệ thống Thiền Hữu Sắc

Nhập Định chỉ là một chuỗi thao tác kỹ thuật của Thân Tâm. Nhập Định là một công cụ. Nó chỉ là một cánh cửa mở ra để đi vào những Cảnh Giới chưa xác định được: Có thể là Cảnh Giới thấp hơn Cảnh Người, có thể là Cảnh Thiên cao hơn Cảnh Người, chứ chưa chắc là đến được Cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc. Nhập Định có rất nhiều cấp độ và có rất nhiều mục đích khác nhau. Đỉnh cao của việc NhậpĐịnh cho một người tu là thời khắc vô cùng quan trọng, đáng ghi nhớ. Đó chính là ngày sinh nhật thứ hai trong kiếp người.

B. CẢNH GIỚI:

Cảnh Giới có nhiều vô số kể. Để đơn giản hóa chúng ta tạm quy ước theo lối chia của trường phái Phật Giáo:
* Thấp hơn cảnh Người: Như mọi người đều biết, đó là cảnh Atula, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục.
* Cao hơn cảnh Người: Như mọi người đều biết, gồm 7 cảnh Thiên: Tứ đại thiên vương … Tha hóa tự tại.
* Sau Cảnh Giới này: là hệ thống Thiền Hữu Sắc.

C. ĐỊNH LUẬT NHÂN QUẢ  TƯƠNG ƯNG:

Nhập Định chỉ là một điều kiện "cần". Nó giống như việc mở ra được cánh cửa. Nhưng chúng ta đến được Cảnh Giới nào còn lệ thuộc vào điều kiện "đủ", bao gồm định luật Nhân Quả: Nghiệp Lực, cấu tạo Tâm, cấu tạo Sắc … và định luật TươngƯng. Thật vậy, cùng dấu thì hút nhau khác dấu thì đẩy nhau.



Do đó, những quan điểm cho rằng: Do tu Thiền Định lâu ngày lâu năm, do Tinh Tấn, do Thắng Giải, cho rằng mình có Định Lực rất mạnh nên có thể tự do đến bất cứ Cảnh Giới nào mình muốn là một điều sai lầm. Định Lực bản thân là một thứ Thần Thông do tập luyện mà có. Tuy vậy chúng ta nên nhớ lại Thần Thông không thể chi phối quy luật tự nhiên khách quan của trời đất là Nhân Quả và Tương Ưng 

Do đó, tùy vào công cụ Nhập Định mà mình sử dụng, tùy vào mục đích NhậpĐịnh, tùy theo hệ quả của Nhân Quả, tùy theo quy luật Tương Ưng … mà NhậpĐịnh sẽ đưa chúng ta đến những nơi mình tương thích, chứ không phải đưa đến những nơi mà mình mong muốn.

D. HỆ QUẢ của NHẬP ĐỊNH:

Chúng ta thử đan cử một mô hình điển hình và bình thường của một con người ở cảnh Dục Giới. Nếu giải thích theo quan điểm của Vi Diệu Pháp thì loại cấu tạo Tâm và Sắc của loại Thực Thể này sẽ đưa họ đi về đâu? Một con người bình thường có nhiều trăm Tâm với trên 28 Sắc Pháp, giới tính có thể là Nam hay Nữ hay Trung tính. Con người có miệng và mũi rõ ràng để hấp thụ dưỡng chất, có tứ chi chân tay để sinh hoạt phù hợp với môi trường đang sinh sống. Để phát triển con người có khả năng giao phối, và để tồn tại họ có bản năng tranh giành thực phẩm và tranh giành quyền giao phối. Người ta gọi là cuộc tranh sống (struggle for life)và đó là định luật đào thải tự nhiên của tập thể con người. Chính vì những lý do nêu trên con người phải đánh nhau, chiến tranh nổ ra từ cá nhân cho đến tập thể. 

Con người còn có thú vui và nhu cầu sử dụng chất say, ăn thịt các sinh vật, ăn thịt đồng loại … Họ còn có nhu cầu vui chơi: Chơi cờ, đánh bài. Những biểu hiện này là sự thể hiện của các Bất Thiện Tâm cơ bản: Tham, Sân, Si … Với cấu tạo cơ bản của một con người bình thường như thế này, thì khi Nhập Định có rất nhiều khả năng vẫn tồn tại lanh quanh trong khu vực Dục Giới. Điều này tùy thuộc ở những Sắc Pháp nào mang tính chất chế ngự, có vai trò ưu thế; tùy thuộc vào những Tâm nào nổi trội và lấn át những Tâm khác.

Một con người thích ăn các loại thịt động vật, có thể ăn thịt cả đồng loại (thí dụ như con gấu, sư tử …) thì khi Nhập Định sẽ đương nhiên tương ưng với các Súc Sanh, Ngạ Quỷ, chỉ ăn thịt để sống: Cọp, Beo, Chó … Các Thực Thể này nổi bật ở Tâm Tham và Sân. Thật vậy, dù no rồi vẫn cứ giết, đó là những Tâm không cần ai nhắc bảo, còn câu hữu với Tâm Hỷ và Xả. Một người ưa thích quan hệ Nam Nữ, khi Nhập Định sẽ Tương Ưng với các loại Súc Sanh thích giao phối. Đây là biểu hiện của Tâm Tham Dục, không cần mách bảo, câu hữu với Tâm Xả. Một người có thú vui sử dụng chất say, các loại chất say … thích chơi cờ, thích chơi bài … khi NhậpĐịnh họ sẽ Tương Ưng với cảnh Thiên của Dục Giới … Chư Thiên, Chư Tiên ở cảnh Dục Giới có cuộc sống nhàn nhã vui chơi, không phải làm việc vất vả như con người, có Nam có Nữ, có quan hệ Nam Nữ vi tế hơn con người, cuộc sống mang tính chất tập thể, bầy đoàn, xã hội. Vì vậy người thế gian chúng ta có thói quen gọi là: Quần Tiên, Chư Tiên do họ không sống một mình. Chi tiết này khá giống với xã hội loài người.

Do đó, dù Nhập Định được thì một con người bình thường, nếu không có một sự chuẩn bị nào cả, không được học tập, thiếu hiểu biết  chúng ta có thể khẳng định rằng - do định luật Tương Ưng, do định luật Nhân Quả -hoàn toàn không có khả năng đến được cảnh Sơ Thiền Hữu Sắc.

E. HỆ THỐNG THIỀN HỮU SẮC  HY VỌNG:

Thật vậy, hệ thống Thiền Hữu Sắc hoàn toàn khác với Dục Giới. Một người không được học tập hoặc không Thực Chứng thì không thể nào hình dung nổi. Các Thực Thể ở Cảnh Giới Thiền Hữu Sắc này không sinh hoạt tập thể, xã hội … họ sinh hoạt một mình, sống trong tình trạng Tâm Định Tĩnh, tất nhiên là chỉ có một mình, yên bình, phẳng lặng … Thực phẩm là niềm vui gần như bất tận, nhưng loại thực phẩm này không liên quan gì đến thực phẩm ở cảnh Thiên của Dục Giới. Như quývị đều biết, các Chư Vị ở hệ thống Thiền Hữu Sắc, họ không có miệng và mũi để tiếp nhận các chất nuôi dưỡng cơ thể. Họ không có khái niệm gì về giới tính Nam Nữ. Do đó, vì không có nhu cầu giành quyền giao phối, giành quyền kiểm soát thực phẩm, nên tuyệt đối không có chiến tranh. Trong khi ở cảnh Thiền Hữu Sắc của Dục Giới thì dường như chiến tranh liên tục cũng chẳng khác gì loài người. Ở hệ thống Thiền Hữu Sắc, các Bất Thiện Tâm dường như vắng bóng, quý độc giả nào Chứng Cảnh Giới Thiền Định này thì biết rõ việc này hơn ai hết.

Tuy nhiên, ở cảnh Thiền Hữu Sắc các Phiền Não vẫn tồn tại. Họ tưởng rằng có một cái Tôi ở cảnh giới Thiền Hữu Sắc, họ tưởng rằng cái vui là bất tận,họ kiêu hãnh vì điều này, họ tưởng rằng Định Tĩnh là có thật và trường tồn.Tệ hại nhất, họ không ngờ rằng Tâm và Sắc dù tế nhị cách mấy cũng phải tuân theo định luật: Sanh, Trụ, Hoại, Diệt. Chính vì lý do này, những chư vị ở cảnh giới Thiền Hữu Sắc này cũng không thoát nổi sự can thiệp của Thần Chết.

Vậy có cách nào để nhập vào hệ thống Thiền Hữu Sắc?

Vâng, việc này hoàn toàn khả thi cho một con người bình thường. Trước nhất sử dụng kỹ thuật Thiền Định để Nhập Định, sắp xếp cấu tạo Tâm, cấu tạo Sắc sao cho tương thích với những quy luật khách quan của hệ thống Thiền Hữu Sắc. Thí dụ như Cảnh Giới này không có chiến tranh, chúng ta phải tập luyện rời bỏ sát sanh: Thân, Tâm, Khẩu, Ý. Cảnh Giới này chúng ta nên nhớ không có mũi, miệng để thọ thực, hấp thụ dưỡng chất. Do đó, sát sanh như ăn thịt cá … hoàn toàn không phù hợp với lối sinh hoạt của các vị ở hệ thống Thiền Hữu Sắc. Cũng vậy, nếu chúng ta sử dụng chất say như: Rượu bia, thuốc phiện … thì làm cho Tâm yếu đuối muội lược, đây là một Tâm cơ bản, là nền móng của tất cả các Bất Thiện Tâm. Hành động này, lối sống này, hoàn toàn không tương thích với cách sinh hoạt ở hệ thống Thiền Hữu Sắc.

Giới luật căn bản như tất cả mọi người đều biết, là quyền lợi của bản thân người tu Thiền Định vì nó tập cho chúng ta có một lề lối sinh hoạt, ở những hệ thống cao hơn, của những Thực Thể cao hơn. Nói tóm lại, Nhập Định vào hệ thống Thiền Hữu Sắc cũng khó mà cũng dễ. Điều này lệ thuộc vào ý chí của người tu Thiền Định.


Monday, March 24, 2014


Tư tưởng, lời nói và việc làm của một người luôn phản ánh Tâm Thức của người ấy và với Định luật Tương Ưng nó sẽ ứng với một Cảnh Giới khi ta tu tập và Nhập Định. Thật vậy, một người thường nghĩ về điều bất thiện sẽ luôn thích đề cập, bàn đến những điều chẳng lành và hệ quả là sẽ làm những chuyện bất lành và ngược lại v.v... 

Sau đây là những mẩu chuyện mà nhóm HHN được nghe người anh Cả của mình kể lại khi giải thích một số việc. Xin được chia sẻ hầu quý độc giả.

Một hôm vừa nhắm mắt thì một vị Quán Tự Tại mặc đồ màu nâu đã xuất hiện và hỏi anh: 

- Chú có muốn xuống nước chơi không?
Anh Cả (thầm nghĩ): Xuống nước à? Uh huh! Cũng được, thử xem sao; và hỏi lại: Nhưng làm thế nào mà xuống?

Vị QTT: Chú cứ nghĩ về cái rạch đằng trước nhà đó và cứ nghĩ liên tục về nó nhé!

Thế là anh Cả cứ nghĩ miết về cái rạch ấy và một lần tự nhiên những cọng cỏ sát dưới đáy rạch xuất hiện ngay trước mặt và chốc sau nó biến mất. Rồi từ từ những lần sau đó anh bắt đầu xuống dưới đáy rạch nước dễ dàng hơn và đó là khởi đầu của tư cách "Chú Tâm vào một vật duy nhất" và sử dụng Kỹ Thuật Thiền Định vào các tầng Thiền từ (Sơ Thiền đến Tứ Thiền) để tạo ra hiện tượng "Xuất Hồn"sau này.

Lại một lần trong buổi Nhập Định của những năm đầu tu hành, người anh Cả của nhóm HHN thấy mình đến một thành phố thuộc về Ấn Độ; và tại đây anh gặp một người cao to, ốm và có mái tóc dài. Người này mặc bộ quần áo màu trắng ngà hơi ngả vàng. Tự nhiên anh biết đó chính là J. Krisnamurti, mặc dù trước đây anh không thích J. Krisnamurti. Anh ngồi ở một bờ hồ và Krisna đã dạy anh cột 2 tay và 2 chân áp vào nhau khi Quán Tưởng. Câu chuyện qua đi rất lâu. Sau này anh có một người bạn lai Nhật tu Yoga và anh đã đem câu chuyện vừa rồi để hỏi người bạn này; thì anh mới biết là việc cột tay chân như vậy là phương pháp để tuyệt dục.

Câu chuyện khác xảy ra từ nhiều chục năm về trước khi người anh Cả của nhóm còn tu Mật Tông. Trong lúc Nhập Định, anh gặp một vị Quán Tự Tại và vị này đã chỉ dẫn anh là đi đến một ngôi Chùa ở tại Sài Gòn, mà trước đây anh chưa hề đến bao giờ, gặp một người được báo trước để lấy một tài liệu. Khi anh thực sự đến đó thì đã gặp một vị Sư tu theo phái Khất Thực mời anh dùng cơm và trao cho anh hai Đàn Pháp là “Quán Âm Tự Tại” và “Di Đà”. Khi thực sự cầm Đàn Pháp này trong tay, anh nói còn tưởng mình là mơ. Hiện nay sau nhiều năm, đàn pháp Quan Âm đã bị thất lạc, còn Đàn Pháp Di Đà vẫn còn được lưu giữ nên anh chuyển cho nhóm HHN; và nhóm chụp lại và post lên cho quý độc giả có dịp tham khảo.





Friday, March 21, 2014




Người ta thường xếp đề tài Thần Thông vào loại nhạy cảm hay đúng hơn là đề tài rất đáng sợ. Thật vậy, Thần Thông là một trò đùa với lửa, liếm mật trên lưỡi dao bào. Phần thưởng của trò chơi này chắc chắn là "giải khát bằng rượu độc".

Dù là khoa học gia hay là người tu Huyền Môn, câu trả lời của họ về vấn đề này đều chung chung mơ hồ. Thật vậy từ Đông sang Tây, từ Cổ chí Kim, ai theo đuổi con đường này đa phần cũng đến chỗ thân bại danh liệt: Mesmer ở trời Tây, Ts. Nguyễn Hoàng Phương ở Việt Nam.

Từ xưa đến nay, đối với đại đa số người tu, dù có muốn tập Thần Thông cũng gần như không có tài liệu nào hướng dẫn thực tế chi tiết để tập; do đó không tập được. Từ đây phát sinh một tâm lý tiêu cực là đánh giá thấp Thần Thông, thậm chí còn coi Thần Thông là cặn bã của Thiền Định.

Hôm nay chúng tôi muốn chia sẻ cùng các bạn về kinh nghiệm Thần Thông của nhóm: Trong 1 lần đăng bài trên một diễn đàn mạng  có một độc giả đặt câu hỏi về bài viết của Thiền định - HHN. Vì muốn trao đổi hiệu quả và phù hợp với ý muốn với của quý độc giả nên phải tìm cách hữu hình hóa nó. Cách thức là Thiền định - HHN đem những kiến thức từ các bài viết ứng dụng cụ thể vào thực tế. 

Nguyên tắc là người tu tập trung tư tưởng, sau đó tìm cách để gạt ý thức của người mình muốn tìm hiểu sang một bên, nghĩa là tháo bỏ con búp bê ngoài cùng của đối tượng ra (không cần quan tâm đến đó là người già trẻ lớn bé) và tìm cách đi sâu vào những con người sâu thẳm bên trong, vào tiềm thức của đối tượng để biết việc này việc nọ. Quý bạn khi đọc "Nguyên Tắc búp bê Matryoshka" của trang blog này, đã biết con người chúng ta không phải chỉ có một con người mà là có nhiều con người bên trong một con người.

Thao tác kỹ thuật diễn ra theo một tiến trình sau đây

Chúng tôi chọn một vị thế ngồi thoải mái và thư giãn nhất. Sau đó lấy tác giả của câu hỏi làm Công án để Chỉ và Quán. Luồng Tâm Thức sẽ diễn tiến tuần tự để đạt được An Chỉ Tâm. Tại đây chúng tôi bước qua một Cảnh Giới khác. Để biết chắc việc chuyển sang Cảnh Giới Thiền Hữu Sắc là chính xác, chúng phải kiểm tra lại cấu tạo Sắc và cấu tạo Tâm của mình.

Việc kiểm tra này hoàn toàn không phải là thừa vì chúng tôi có lúc Nhập Định lầm vì thấy mình là một người Nam cao lớn. Do thấy yếu tố Nam Nữ nên rõ ràng đó là Cảnh Thiên của Dục Giới. Chúng tôi phải sửa sang lại Sắc và Tâm của mình để phù hợp với Cảnh Thiền Hữu Sắc. Khi đã khẳng định mình đang ở đúng Cảnh Giới này thì sẽ sử dụng những giác quan vốn có của Cảnh Giới này để tìm kiếm bạn độc giả đặt câu hỏi. Nhưng lúc này người hỏi lại không ở cùng Cảnh Giới với chúng tôi, nên chúng tôi phải tập trung vào câu hỏi của người đó; nhờ vào Định Luật Tương Ưng để dò tìm tần số. Khi đã lần ra được đầu mối, thì giống như người làm công tác điều tra, cứ tiếp tục hỏi những điều muốn biết thì các biểu tượng của người hỏi (chứ không phải hình ảnh) từ từ hiện ra mang đến thông tin cho chúng tôi như sau:

- Vị độc giả này hay đặt câu hỏi, tham gia nhiệt tình nên dễ gây ra hiểu lầm.

- Vấn đề người hỏi đặt ra câu hỏi cho Thiền định - HHN (HHN) có lẽ chỉ muốn có những thông tin chung chung. Lúc chưa nhập định HHN phân vân giữa hai cách trả lời: Một là tổng quát, hai là chi tiết. Cụ thể là vấn đề hào quang (aura) nếu trình bày đủ các phần: Hiệu ứng ion hóa, hiệu ứng Kirlan, phản biện, bảo vệ, cách tập luyện ... phải kéo dài nhiều chục trang.

- Qua Quán tưởng (chúng tôi thành thật xin lỗi vì chưa được phép của người hỏi). Chúng tôi được biết người hỏi là người tốt bụng, chân thành, vui vẻ dễ thương.

PHẦN PHỤ LỤC

1. Như đã trình bày ở những bài viết của nhóm thì những năng lực khác thường của con người thường được gọi là Thần Thông.

2. Tiến trình về kỹ thuật được trình bày ở trên thì với người không quen tu ThiềnĐịnh, nó có vẻ mang tính chất cao siêu huyền bí ... Thật ra nó cũng chỉ là công trình tập luyện, sau đó trở thành thói quen.

3. Tính hiệu quả chỉ có tính chất tương đối. Thật vậy ngay cả toán học, lãnh vực được mô tả là chính xác cao, vẫn có những sai lầm chết người. Có rất nhiều lý do để đưa lại hệ quả chính xác không cao, chúng tôi xin phép được trình bày trong một dịp khác. Cuộc sống không có gì là hoàn hảo. Do đó, những điều được trình bày ở phần trên nếu có sai sót xin quý độc giả lượng thứ. Chúng tôi tự trách mình là học nghệ chưa tinh. 

4. Có cách nào chống lại những kẻ hiếu kỳ không mời mà đến? Nếu bạn không muốn bị người khác Tác Pháp hoặc Quán Tưởng? Xin thưa khá dễ dàng, Định Tâm và Nhập vào các loại Định Vô Tưởng. 

5. Nhưng ngược lại, lúc ngủ là lúc mất cảnh giác nhất vì ý thức bị mất. Nằm mơ có nghĩa là chủ nhà vắng nhà. Đây là lúc thuận lợi nhất cho những kẻ hiếu kỳ, tò mò tìm đến. 

6. Người ta còn sử dụng dạng "Nhập". Dạng này vô cùng phổ thông trong xã hội, ít nhất là ở Việt Nam như: Cô, Cậu, Đồng bóng, Cậu trạng, Thầy ... thật giả đủ các loại. Những người bị Nhập thật có khả năng biết việc hiện tại và quá khứ gần ... đôi khi chính xác một cách đáng kinh ngạc. Nhưng họ thường không có khả năng biết về tương lai và biết về người tu Thiền Định. Cá biệt cũng có Vong Linh lại biết về tương lai vài chục năm sau. 

7. Các cơ quan điều tra về tội phạm trên thế giới thường sử dụng công cụ Thôi Miên, công cụ này tác động như sau: Dùng một nguồn sáng mạnh, để cao hơn tầm mắt của người bị thôi miên, kèm theo khuyến dụ bằng lời nói. Thao tác này làm cho người bị thôi miên mất đi ý thức, không còn kiểm soát và làm chủ được mình nữa. Trạng thái này thuật ngữ chuyên môn gọi là TRANCE và người thôi miên sẽ đi vào lục lọi trong tiềm thức của người bị thôi miên những thông tin mà mình muốn biết.