Sunday, June 29, 2014



Helena Blavatsky  Con Mắt Thứ Ba 
Ðoàn bảo tiêu Xuyên Vân Kiếm Pháp dừng chân bên bìa rừng. Họ
Ðoàn bảo tiêu Xuyên Vân Kiếm Pháp đi xuyên qua một khu rừng và về đến quán trọ thì trăng đã bắt đầu lên. Ánh trăng tròn vằng vặc đang chiếu sáng núi rừng. Những cánh hoa dại bên đường rung rinh và tiếng lá khô xào xạc khi làn gió đêm thu tràn về. Vừa bước vào quán, Tam Tiểu Thư tìm một chỗ ngồi ở góc quán và gọi một bình trà nóng. Tổng quản ngồi xuống đối diện, mở chiếc túi vải đeo bên mình lấy ra Cuốn Tạp Thư cũ kỹ.

Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản à, hồi tôi đi học ở bên Pháp, trường tôi ở Quận 5, khu này nhiều trường học lắm ông ạ. Tôi nhớ có một tác giả người Pháp nói như sau: “Chúng ta đến một trái đất đã quá già, mọi điều người ta đều đã nói, mọi việc người ta đều đã làm”. Cái gì người ta cũng biết như vậy thì tôi tự hỏi là còn có gì mà mình có thể làm trong cuộc đời này không? Mình coi như bị thất nghiệp hả ông? Nếu thế thì hơi bị buồn đó.

- Ông Tổng Quản: Khoan khoan, có chuyện đó thật à? Để tôi tra cuốn Tạp Thư chút xíu nha cô. Đây, Tạp Thư có ghi một câu ghi thế này, cô xem có phải không “Nous arrivons dans un monde trop vieux …” 


- Tam Tiểu Thư: Chính xác ông Tổng quản ạ, cuốn Tạp Thư này “sang” thiệt đó, ai nói gì cũng hay cũng biết. Nhưng theo ý ông thì câu nói đó đúng không?

- Ông Tổng Quản: Điều mà nhà văn người Pháp đó nói, có lẽ chỉ mới đúng một phần nào mà thôi; ít nhất là đối với vấn đề Con Mắt Thứ Ba. Mặc dù đây là một đề tài đã sanh ra cùng với lịch sử của nhân loại, nhưng đến thế kỷ 21 nó vẫn còn mới. Việc tiên tri vẫn còn là một bí mật, là đặc quyền của một số ít người nào đó, mà cả khoa học lẫn tôn giáo cũng không biết nên có ý kiến ra sao.

- Tam Tiểu Thư: Cho tôi phản đối ông câu này. Theo tôi những người mà đã thực sự có Đệ Tam Nhãn, thì họ phải biết nó là như thế nào chứ ông? Sao lại không có ý kiến chứ. Tôi mà có Đệ Tam Nhãn là tôi ý kiến với ông liền.


- Tổng Quản: Có Đệ Tam Nhãn là một chuyện, còn giải thích được nó hay không lại là một việc khác. Trên đời thiếu gì chuyện tương tự như vậy. Cô không thấy nhà thơ Xuân Diệu viết: “làm sao cắt nghĩa được tình yêu” trong khi ai cũng nói mình có tình yêu hết. Quay lại chuyện Con Mắt Thứ Ba, thì cô không nên lo là trái đất đã quá già, mọi việc đã làm, mọi điều đã nói.

- Tam tiểu Thư: À! Ông nói vậy có nghĩa là ông sẽ có nhiều điều “thay Tạp Thư muốn nói” về Con Mắt Thứ Ba phải không? OK ông, tôi sẽ chờ để nghe ông nói.

- Tổng Quản: Cô yên tâm. Do chuyến đi còn dài, nên trong những thời gian tới, cuốn Tạp Thư sẽ cho cô biết ít nhất bốn đề mục quan trọng sau đây:

1. Con Mắt Thứ Ba có thật hay không? Nếu không có thì chẳng có gì để mà nói. Nhưng nếu có, thì sẽ có một số vấn đề cần phải tìm hiểu.

2. Nguồn gốc của Con Mắt Thứ Ba: Đây chính là đặc sản của cuốn Tạp Thư vì nó là nơi duy nhất cho chúng ta biết cái gì đã cấu tạo ra Con Mắt Thứ Ba. Đó chính là Tâm và Sắc; ngoài ra còn phải kể đến Cảnh Giới nữa.

3. Có bao nhiêu loại Nhãn: Ðây cũng là đặc sản của cuốn Tạp Thư đó cô. Do Con Mắt Thứ 3 là sở hữu của một Thực thể bất kỳ ở một Cảnh Giới nào đó; thế nên Con Mắt Thứ Ba có nhiều vô số kể, vì Thực thể và Cảnh giới có nhiều vô số kể.

4. Quy luật để mở Con Mắt Thứ Ba: Vẫn là đặc sản của cuốn Tạp Thư mà chúng ta không thể tìm thấy ở nơi khác. Thiền định là công cụ duy nhất để mở Con Mắt Thứ Ba. Thí dụ con người là một Thực thể ở Cảnh giới thế gian Dục giới, tùy theo định lực, đạt được Cảnh giới nào thì có loại Con Mắt Thứ Ba tương ứng. Cụ thể là, nếu đạt được cảnh Định Dục Giới, thì có Con Mắt Thứ Ba ở cảnh Định Dục Giới.

5. Có Con Mắt Thứ Ba là một việc, nhưng hiểu được các tín hiệu mà Con Mắt Thứ Ba thu nhận lại là một việc hoàn toàn khác. Cái gì quyết định vấn đề này? Chính là Quy Luật Tư Duy, là chiếc cầu kết nối giữa Đối tượng và Chủ thể. Người mở được Con Mắt Thứ Ba phải có một Quy Luật Tư Duy phù hợp. Ðể minh hoạ vấn đề, cuốn Tạp Thư có giải thích như sau: Hình một con Chim chẳng hạn, nếu được nhìn ở cảnh thế gian Dục Giới, thì con Chim nghĩa là con Chim. Nhưng ở cảnh giới khác, thí dụ như Thiên Dục Giới, thì con Chim lại có ý nghĩa khác, có thể là sự tự do chẳng hạn … hay cái gì khác nữa. Nó lệ thuộc chủ yếu và quan trọng nhất là vào cấu tạo Tâm và Sắc của một Thực Thể.

Cuốn Tạp Thư có ghi lại lời nói của một tác giả người Nga - Leo Tolstoy - nói chung chung về vấn đề Huyền môn, Đệ Tam Nhãn như sau: “The books are well known. They contain a lot of good, but they are wrong only in that they talk about what human do not have to know”.

- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản ơi! Ông đang nói về vấn đề Thiền Định là một công cụ ắt cần và đủ để mở Con Mắt Thứ Ba. Nhưng sau khi nghe ông đề cập tới những vấn đề trên, tôi bỗng nhiên lại có thêm thắc mắc về Con Mắt Thứ Ba này. Mình tạm dừng nói về vấn đề Thiền Định chút xíu nhé.

Tôi còn nhớ trong lần nói chuyện trước, ông đã nói là người ta có thể nhìn thấy nhiều thứ lắm ngoài cái thấy của hai con mắt bình thường. Bằng cớ là cuốn Tạp Thư của ông có hẳn một bản liệt kê về những đối tượng, mà người ta có thể nhìn thấy, không phải do hai con mắt bình thường. Tôi cũng như độc giả, ai cũng nghĩ rằng Con Mắt Thứ Ba chỉ là Con Mắt Thứ Ba thôi. Không thể tưởng tượng được Con Mắt Thứ Ba lại có quá nhiều loại … Cái này là rắc rối ngoài mong đợi luôn đó.

- Ông Tổng Quản: Ðiều cô âu lo là đúng đấy. Nhưng thực sự là cô nên quan tâm đến vấn đề này. Thật vậy, theo cuốn Tạp Thư, thì có vô số Con Mắt Thứ Ba, tùy theo mình định nghĩa Con Mắt Thứ Ba là gì?

Nếu chúng ta định nghĩa Con Mắt Thứ Ba là “cái gì đó làm cho con người có thể nhìn thấy, mà không cần hai con mắt trực tiếp tiếp cận đối tượng”, thì với định nghĩa này sẽ có rất nhiều thứ là Con Mắt Thứ 3. Thí dụ như: Camera để lùi xe, camera hồng ngoại, camera khuyếch đại quang tử, camera quan sát ở các siêu thị; kính hiển vi, viễn vọng kính … Một cô gái người Mỹ có con mắt ở phía sau ót. Một cô gái Việt Nam, bịt mắt hoàn toàn, nhưng vẫn có thể nhìn bằng trán và mũi, hay đọc báo và lái xe bình thường.

Nếu chúng ta định nghĩa Con Mắt Thứ Ba là “nhìn thấy, cảm nhận những cái mà hai con mắt bình thường, dù có những công cụ phụ trợ, cũng không nhìn thấy được; thì nó là chuyện khác". Thí dụ như chuyện nhìn thấy quá khứ tương lai.

- Tam Tiểu Thư: Khi nghe ông giải thích về vấn đề Con Mắt Thứ 3, tôi không ngờ nó lại phức tạp đến như vậy. Nó trừu tượng hơn tôi tưởng rất nhiều và nó có vẻ khó hơn rất nhiều. Trước khi nghe ông giải thích, thì tôi cứ nghĩ là Con Mắt Thứ Ba nó nằm giữa hai con mắt thường, ở ngay trên trán của mình và nó có khả năng thấy những gì mà người bình thường nhìn không thấy, vậy thôi à. Trường hợp cô gái Việt Nam vừa kể trên là thí dụ điển hình đó.

- Ông Tổng Quản: Ðây mới chỉ là phần sơ lược về Con Mắt Thứ Ba thôi. Nếu sau này đi vào chi tiết, cuốn Tạp Thư sẽ trình bày khá tỉ mỉ về các loại Con Mắt Thứ 3. Dù thấy có vẻ rắc rối, nhưng nó lại có một logic khá đơn giản, có lẽ ai cũng hiểu được.

- Tam Tiểu Thư: Ông nói sao? Ðây mới chỉ là phần sơ lược thôi sao? Bao nhiêu đó là tôi đã thấy rối tinh rối mù lên rồi! Ông lại còn nói có nhiều loại Con Mắt Thứ Ba nữa sao? Nói chuyện với ông thiệt là ác mộng!

- Ông Tổng Quản (cười hiền hòa): Nếu cô chịu khó điềm tĩnh học hỏi kỹ lưỡng từ lý thuyết đến thực tế, thì chính cô sẽ phát hiện ra rằng mình có nhiều con mắt chứ không phải chỉ có hai con mắt như mình tưởng xưa nay. Cá nhân cô và tôi, hay quý độc giả là một tập hợp của Tâm và Sắc. Theo quan điểm của Vi Diệu Pháp, thì Tâm và Sắc liên tục biến động. Thị giác lệ thuộc ở cấu tạo Tâm Sắc, do đó, nó cũng phải biến động theo. Lời giải thích này cũng khá đơn giản và dễ hiểu mà. Truyện Kiều từng nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cũng với hai con mắt bình thường vốn có của mình, Kiều khi ở Lầu Ngưng Bích thì nhìn thấy cái gì cũng buồn. Nhưng cũng với hai con mắt đó, ở giai đoạn Kim Kiều tái hợp, thì cô Kiều lại thấy ngoại cảnh thay đổi, tương thích với cấu tạo Tâm và Sắc của mình. Tình hình này cũng xảy ra cho Cô và Tôi.

- Tam Tiểu Thư: Tôi nghe ông nói cũng có lý thật, và không đến nỗi quá khó. Khi tôi ngồi Thiền Định, tôi thấy các giai đoạn Thiền định không giống nhau: lúc Nhập Định mau, lúc Nhập Định chậm; có lúc rất dễ, có lúc lại rất khó; có lúc Định kéo dài, có lúc không muốn nó cũng thối Định, rồi khi thấy biết cái gì đó cũng chẳng bao giờ giống nhau! Nay qua lời nói của ông tôi vỡ lẽ ra rồi! Dù là hai, ba, bốn hay bao nhiêu con mắt đi nữa, thì cảnh do Tâm biến hiện, do Sắc biến hiện. Nói tóm lại, thị giác lệ thuộc ở cấu tạo Tâm và Sắc của bất cứ Thực Thể nào được gọi là "chúng hữu tình".

- Ông Tổng Quản: Với đề tài Đệ Tam Nhãn, cuốn Tạp Thư còn có nhiều hạn mục rất thú vị mà chắc mọi người ai cũng muốn biết. Những thông tin này vượt ra khỏi những hiểu biết của các vị tiền bối như Blavatsky, Lobsang Rampa, Barbara Ann Brennan … Chúng ta cứ cho là họ có Đệ Tam Nhãn, nhưng việc có Đệ Tam Nhãn của họ cũng chẳng có gì giúp được cho chúng ta! Đó là do họ trình bày những vấn đề phải nói là độc thoại, nên chúng ta không có cơ sở gì để nhận biết được đúng hay sai. Bên cạnh đó, mỗi vị lại trình bày thế giới khách quan theo mô hình Đệ Tam Nhãn của mình.

Hy vọng cuốn Tạp Thư của thế kỷ 21 sẽ đóng góp những thông tin có lợi cho mọi người một cách thực tế về vấn đề Đệ Tam Nhãn. Chúng ta có thể nhắc lại những vấn đề cơ bản như sau:
* Nguồn gốc của Đệ Tam Nhãn: Do cấu tạo Tâm, Sắc và Cảnh giới.
* Có nhiều loại Đệ Tam Nhãn: Do lệ thuộc vào Thực Thể bất kỳ.
* Quy luật để mở Đệ Tam Nhãn: Qua Kỹ Thuật Thiền Định.
* Cách để hiểu được những gì mình nhìn cảm nhận bằng Đệ Tam Nhãn: Là thông qua Quy Luật Tư Duy phù hợp với Đối tượng, Chủ thể, Cảnh giới.

- Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản ơi, cái cuốn Tạp Thư tạp nhạp của ông hơi bị Trí Tuệ đó. Thông tin của cuốn Tạp Thư có vẻ “Hậu sanh khả úy”. Ðúng là "Con hơn cha là nhà có phúc”. Có lẽ đây là tài liệu đầu tiên trong lịch sử con người, không những nói về đề tài Đệ Tam Nhãn, mà còn bao gồm cả vấn đề làm sao mở được Đệ Tam Nhãn. Quan trọng hơn nữa là cung cấp cho chúng ta hiểu biết về Quy Luật Tư Duy, mà người bình dân gọi là Luận Lý Hình Thức, làm cho chúng ta có thể hiểu được các thông tin do Con Mắt Thứ Ba tiếp nhận. Tôi nghe đến đây thì tôi hết buồn ngủ rồi. Không biết tôi nên bái ông hay bái Cuốn Tạp Thư làm Thầy nhỉ? À quên còn có lễ vật ra mắt nữa chứ! Để sau chuyến đi này, tôi kiếm được chút tiền sẽ mua Ipad model 2014 tặng ông nhe.

- Ông Tổng Quản: Khoan khoan cô ơi, trong thời gian gần đây, bức tranh về vấn đề huyền bí, Đệ Tam Nhãn … không được rực rỡ huy hoàng cùng với lịch sử nhân loại như cô tưởng đâu! Chắc cô cũng như quý độc giả không ngờ rằng nhân loại không chào đón vấn đề này một cách đơn giản đâu. Cô hãy mở laptop, gắn Decom 3G để thuận tiện truy cập rồi xem người ta bình luận gì về Blavatsky, Lobsang Rampa đi nhé.

-
 Tam Tiểu Thư: Theo tôi hiểu thì Đệ Tam Nhãn có gì là xấu đâu hả ông! Có vi phạm cái gì đâu, có luật pháp nào cấm đâu? Tôi nghi là các Tôn Giáo họ không thích phải không?

-
 Ông Tổng Quản: Cô nghi oan cho các Tôn giáo rồi. Tác nhân là những người có học, có quyền lúc bấy giờ (The learned authorities of her day), những ông nhà báo ở Pháp, Anh, Ðức. Họ thường sử dụng một số từ ngữ nêu sau để nói về những người mà họ nghĩ là có Đệ Tam Nhãn:

* Charlatan: Lang băm.
* Evil: Quỷ quái.
* A spy for: Làm gián điệp cho …
* Racist: Phân biệt chủng tộc.
* Falsifier of letters: Phù thủy về từ ngữ
 (Phỏng dịch).
* Great fraud: Ðại bịp.
* Plagiarize : Ðạo văn.
* Con art: Phản nghệ thuật.
* False medium: Người Đồng giả hiệu.
* V.v...

-
 Tam Tiểu Thư: Ông có nói thì tôi và độc giả có lẽ mới biết là vấn đề Huyền môn và Đệ Tam Nhãn lại có một lịch sử tồi tệ đầy kịch tính đến vậy. Thế thì ai còn dám bước vào khảo cứu hả ông? Chẳng lẽ Đệ Tam Nhãn muôn đời là một ẩn số?!

-
 Ông Tổng Quản: Nhận xét của Cô là đúng đó. Đúng như lời Leo Tolstoy người Nga từng nói, dù là Blavatsky, Lobsang Rampa hay cuốn Tạp Thư … đều mắc một sai lầm không thể tha thứ được “Cái sai lầm là nói lên những điều mà con người đáng lẽ không được biết”

-
 Tam Tiểu Thư: Cuốn Tạp Thư thì ok, tôi biết rồi. Còn những người ông hay nhắc tới thì họ là ai? Họ làm cái gì, mà các nhà báo, các học giả, ở nhiều nước trên thế giới bảo họ là Phù thủy ngôn ngữ, đại bịp, phản thẩm mỹ … sau đó hình như là họ được tuyên bố lại là bị xử bất công mà. Tôi nghe tên họ cũng có vẻ quen quen.

-
 Ông Tổng Quản: Có lẽ Cô cũng nên biết về họ. Bộ môn nào ra đời cũng phải có những con Chuột bạch. Đó là một tiến trình dường như tất yếu của lịch sử khoa học. Thật vậy, nhờ những tác phẩm và công việc của họ mà ngày hôm nay cô mới có cơ hội được biết đến cuốn Tạp Thư.

Có ai đó đã đàm luận về trường hợp của Lobsang Rampa đại khái như sau “Các nhà Khoa học, ở bất cứ thời đại nào cũng chỉ muốn nghiên cứu đến những vấn đề thực tế, cái gì đó cho chắc ăn, cái gì đó thiết thực như công cụ sản xuất vũ khí chiến tranh. Còn những vấn đề thuộc về cái gì đó có vẻ mơ hồ nguy hiểm như tâm linh thì họ đều tránh xa, vì chẳng có lợi gì cho họ cả. Do đó, một số vấn đề, chẳng biết sắp vào loại nào thì được hai kênh truyền hình DiscoveryNational Geographic đảm nhiệm”. Nhận xét này có lẽ không phải là sai. Gần đây trên kênh Discovery có làm một chương trình về vấn đề tìm người mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Họ có quay được cảnh một cái trứng đứng yên ở trên một đầu đũa mà không rớt xuống. Hình ảnh được nhìn thấy rõ ràng. Không có lời bình luận nào kèm theo cả.

Ta cùng thử duyệt xét lại một số hiện tượng về vấn đề này, trong ba thế kỷ 19, 20, 21.

Era 19:
 1. Helena Blavatsky 1831
Era 20:
 2. Lobsang Rampa 1910
           
 3. Barbara Ann Brennan 1939
Era 21:
 4. Cuốn Tạp Thư 2014

-
 Tam Tiểu Thư: Câu chuyện thế này có vẻ còn kéo dài lắm. Hay là ông đừng nói chuyện này nữa, mình quay lại chuyện Tu tập của tôi đi. Ông kiểm tra xem tôi Tu như vậy đúng cách chưa? Nếu ông mà có nội công thâm hậu thì ông xem còn bao lâu nữa tôi sẽ mở Nhãn được? Chuyện này hấp dẫn hơn chuyện ông đang nói nhiều đó.

-
 Ông Tổng Quản: Như vậy cũng có thể được, nhưng có một vài trở ngại mà Tam Tiểu Thư nên suy nghĩ lại. Một khi cô không hiểu rõ vấn đề, thì chính bản thân cô sanh ra năm nghi mười ngờ. Bằng chứng là cô mới hỏi tôi là cô tập như thế là đúng hay còn cách nào hay hơn? Thiếu quyết tâm, thiếu tự tin khi tập một cái gì đó về tinh thần thì khó có thể thành công cô ạ. Chính mình không tin ở mình, thì lấy gì mà thành công được chứ? Muốn mau hóa ra lại chậm. Dân gian thường nói “Non sông dễ đổi, bản tánh khó dời”. Chuyện này cho thấy việc tập luyện tánh tình là một điều rất khó. Đó là công việc đặc biệt hơn mọi cái khác. Chúng ta tập luyện một thứ nhằm mục đích thay hẳn đời người, thì chắc chắn phải làm rất cẩn thận, đúng không cô?

-
 Tam Tiểu Thư: Thôi được rồi, được rồi. Nói với ông đúng là không lại mà. Ông và cuốn Tạp Thư đúng là một cặp đôi hoàn hảo.

-
 Ông Tổng Quản: Vậy bây giờ chúng ta bắt đầu xem xét trong ba thế kỷ liên tiếp, nhân loại đã đón nhận vấn đề Huyền môn và Đệ Tam Nhãn thế nào nhé. Ðể bắt đầu chúng ta thử tìm hiểu trường hợp Helena Blavatsky.

Helena Blavatsky là một người Nga, bây giờ là lãnh thổ Ukraina. Bà tên thật là Helena Petrovna Blavatsky, sanh năm 1831, xuất thân từ một gia đình quý tộc và có một nền giáo dục vững chắc. Do cha của bà là một sĩ quan, nên gia đình di chuyển đến nhiều nơi. Bà lập gia đình năm 1849 nhưng chẳng bao lâu sau, bà tự từ bỏ người chồng và đi đây đi đó. Bà từng có thời gian lưu lại ở Tây Tạng rất lâu. Chính có lẽ tại đây bà đã viết tác phẩm nối tiếng The voice of the silence (Tiếng nói vô thanh). Bà được người ta mô tả là “Buddism Encyclopedia”
 (Bách khoa từ điển Phật giáo). Mốc thời gian quan trọng nhất là lúc bà gặp Ðại tá Henry Steel Olcott. Vào năm 1875, họ thành lập Hội Thông Thiên học (Theosophical Society). Thông Thiên học có một câu nói nổi tiếng là “There is no religion higher than truth” (Không có tôn giáo nào cao hơn chân lý).

Họ phát minh ra định luật
 “Law of correspondences” dạng mô hình vũ trụ song song hay đối xứng gì đó.

Họ thực hành khảo cứu, thiền định và phục sự
 (study, meditation, service)


-
 Tam Tiểu Thư: Những nhận xét của người đương thời là học giả và các nhà báo về bà Helena Blavatsky thì tôi có đọc trên trang web rồi, không cần phải nhắc lại nữa. Nhưng còn cuốn Tạp Thư thì đàm luận thế nào về trường hợp bà Blavatsky.

- Ông Tổng Quản: Nhận xét của cuốn Tạp Thư hoàn toàn khác hẳn với những gì nhận xét của những người đương thời với bà. Theo cuốn Tạp Thư, thì không phải bà có Đệ Tam Nhãn. Điều này cũng chẳng còn gì nghi ngờ nữa vì chính bà thú nhận là có rất nhiều vị Chân Sư nhập vào bà. Công việc này vô cùng đơn giản vì khả năng của bà là nhờ vào Đệ Tam Nhãn của các vị Chân Sư nhập vào bà. Thực tế mà nói, nguồn gốc của các vị Chân Sư không ai xác định được, nhưng căn cứ vào tiêu chí của Vi Diệu Pháp, thì với lối mô tả của ông Olcott, dường như các vị này thuộc cảnh Thiên Dục Giới. Nhãn của các vị ở Cảnh giới này cũng không hơn con người là bao nhiêu, do đó các nhận xét có lẽ rất hạn chế. Chúng ta lấy trường hợp điển hình là khi họ bàn về vấn đề nguồn gốc con người, thì cách trình bày có vẻ không phù hợp với thực tế. Do đó bị người ta nhận xét là Racist.

Kinh nghiệm thực sự của Đệ Tam Nhãn cho biết là
 khi sử dụng một loại Đệ Tam Nhãn nào đó  vượt quá tầm hoạt động, thì các hiểu biết trở nên lu mờ, và khả năng  không chính xác. Có thể đây là trường hợp là Nhãn của các vị Chân Sư đã sử dụng vượt quá khả năng của mình.

-
 Tam Tiểu Thư: Ông Tổng Quản ơi, nói thiệt với ông là từ ngày nói chuyện với ông và Cuốn Tạp Thư, tôi có cảm giác như bị lạc vào thế giới vô hình vậy. Thôi tôi vào phòng tập Thiền chút xíu nhe ông. Hy vọng thời Thiền Định tối nay của tôi gặp may mắn. Lạy trời Con Mắt Thứ Ba của tôi hé mở để tôi tự biết đủ thứ mà không cần hỏi ông nữa!!!

(còn tiếp)



Friday, June 27, 2014



Tam Tiểu Thư muốn biết về 
kinh nghiệm hữu dụng   thực tế 
của Con Mắt Thứ 3

Ðoàn bảo tiêu Những kinh sách và những tư liệu quý của Phật giáo Nguyên thủy  dừng chân bên bìa rừng. Họ ngồi dưới bóng mát của đám cây dọc theo đường mòn. Tam Tiểu Thư và Ông Tổng Quản, vừa ăn cơm vừa trò chuyện.

Tam Tiểu Thư: 

-  Ông Tổng Quản ơi, tôi muốn hỏi ông câu này nhe. Phần thì do tò mò, nhưng cái chính là vì tôi đã nghe theo lời ông, tập luyện để mở Con Mắt Thứ Ba được một thời gian rồi; thế nhưng tôi vẫn lo lắng. Ông chỉ tôi như vậy, nhưng thực sự thì ông có biết hay có kinh nghiệm thực tế gì về Con Mắt Thứ Ba không? Lỡ ông xí gạt tôi, xúi tôi làm một việc mà chính ông cũng chẳng thực biết nó là gì. Tôi muốn chắc ăn. Vậy ông làm ơn kể xem là cuốn Tạp Thư có biết gì về chuyện này không ông? Nếu chính ông mà có kinh nghiệm thì còn tuyệt tuyệt tuyệt ... vời hơn nữa đó!

Ông Tổng Quản: 

-  Kinh nghiệm thực tế của Con Mắt Thứ Ba thì nhiều lắm, Tam Tiểu Thư ơi! Phải nói là nhiều vô số kể. Trong tương lai, cô rất cần phải học hỏi kinh nghiệm thực tế của những người đi trước. Trên cơ sở này, cô mới có thể hiểu được những tín hiệu do Con Mắt Thứ Ba tiếp nhận được. Rồi cô còn phải học hỏi về Quy Luật Tư Duy của các tín hiệu của các loại Con Mắt Thứ Ba trong các Cảnh giới. Ðây là một công việc phức tạp, phải đòi hỏi sự phối hợp của nhiều kiến thức ở các lãnh vực khác nhau trên lý thuyết cũng như trong thực hành.

Tam Tiểu Thư: 

-  Vậy là sao? Ông giải thích chút xíu về chuyện tín hiệu này đi.

Tổng Quản: 

-  Để dễ hiểu hơn, tôi tạm thí dụ nôm na thế này. Ngày nào cô cũng mở laptop ra chat đúng không? Nếu cô thấy cái hình này thì cô hiểu nó thế nào?


Tam Tiểu Thư: 
-  Ồ! Cái đó tôi rành hơn ông nhiều. Ai mà thấy hình đó cũng hiểu là tình yêu của một người Nam và một người Nữ đó.
Tổng Quản: 
-  Sở dĩ ai cũng hiểu là vì mọi người ở cõi Ta Bà này có cách nghĩ và cách Tư Duy giống nhau. Nếu cô mà mang cái hình này qua Cảnh giới khác, thì liệu người ta hiểu như cô hiểu không? Tương tự vậy, khi cô tập Thiền Định, thì cô chuyển đổi Cảnh giới; và nếu cô muốn hiểu các tín hiệu ở Cảnh giới khác thì cô phải chịu khó học về Quy Luật Tư Duy của Cảnh Giới khác thôi.

Tam Tiểu Thư:
-   À, ra vậy! Nói chi xa xôi, hôm trước tôi lái xe hơi mà tôi bị phạt là do tôi không hiểu về một cái bảng tín hiệu giao thông trên đường đó. Ông nói đúng rồi, cái gì cũng cần học mới biết.
Tổng Quản: 
-  Hôm nay tôi sẽ kể lại cho cô nghe một câu chuyện khá đơn giản. Nhưng trước khi nghe câu chuyện này, cô nên suy nghĩ về lời nói của một Nhà Ảo Thuật và Thôi Miên nổi tiếng người Mỹ Harry Houdini “Nếu điều gì đó bạn chưa hiểu, thì đừng coi đó là điều kỳ lạ hay trò lừa bịp”.
Tam Tiểu Thư: 

- Ông nói đúng đấy ông. Lịch sử khoa học đã có quá nhiều bài học, xưa cũng như nay: Bruno, Copenic với tác phẩm “De Revolu Tionubus Orbium Caelestium Libri”. Trực thăng lai cánh bằng Osprey V.22. Xã hội đương thời để trả công về việc phát minh, đã đưa nhà bác học Bruno lên giàn hỏa. Phải bảo đây là trò chơi nướng người. Dư luận không ngớt chê bai về máy bay lai trực thăng V22. Nếu ai đó ít nhiều hiểu về hàng không quân sự, thì có lẽ sẽ thấy tính chất hữu dụng và hiệu quả của máy bay kể trên. Ðiều ông vừa nói tôi nhất định phải quan tâm. Từ nay, tôi phải suy nghĩ lại, về thái độ của mình, trước những gì mà mình chưa biết. Thôi, ông vui lòng kể đi.

Ông Tổng Quản: 

-  Có một vị, giới tính là nữ. Bà này đã qua đời vào khoảng 105 đến 107 tuổi (trong thời gian này tình hình chính trị xã hội ở những quốc gia nhược tiểu không ổn định. Do đó, hệ thống hành chánh quản lý con người còn rất lỏng lẻo, không rõ ràng, nên không ai dám chắc ngày sanh là có đúng hay không. Mặt khác, chiến tranh thế giới cũng như chiến tranh cục bộ liên tiếp xảy ra). Tóm lại, bà là chứng nhân của các biến cố trong suốt ba thế kỷ. Tất nhiên, bà được chứng kiến cả hai cuộc thế chiến và cả chiến tranh nội bộ. Bà sống tại một tỉnh lẻ, cũng là một thành phố cũng tương đối nổi tiếng tại VN. Bà tên là N. T. Ð -  là mẹ kế và cũng là  mẹ nuôi của một vài vị có địa vị trong một tôn giáo lớn của Việt Nam và Thế Giới. Do những diễn tiến khách quan và chủ quan, bà được gởi nuôi tại nhà của một vị giám đốc  của một công ty kinh doanh nọ. Nói chung, cuộc sống của bà ở tại nơi đó khá đầy đủ. Bà có sức khỏe tốt, sống bình thường và chẳng đau bệnh gì cả. Bà mất đi có lẽ vì hết tuổi thọ.

Sau khi bà mất đi, đến đợt giỗ lần thứ hai thì gia đình của anh chị giám đốc nọ, người đã từng nuôi dưỡng bà, có tổ chức ngày giỗ. Chị giám đốc có nhờ một người, hình như có khả năng chủ động để giao tiếp với người quá cố, mục đích để xem bà còn có gì vướng mắc ở thế gian hay không. Buổi cúng giỗ tiến hành rất bình thường với cơm, nước, hoa trái, nhang đèn … đầy đủ tất cả những thủ tục trong cuộc sống đời thường của người Việt Nam.

Vào lúc chiều tối cùng ngày, thì người có khả năng ngoại cảm mà chị giám đốc nhờ làm trung gian giao tiếp, có báo một số vấn đề: Dường như, người quá cố có một số nhu cầu, có một số mong muốn:

* Một đôi dép Nhật.
* Một cái nhà nhỏ.
* Một phương tiện đi lại.
* Một cái lọng, cái dù.
* Một cái máy chữ.

Chính bản thân người giao tiếp với vị đã quá cố cũng chẳng hiểu tại sao người quá cố lại có những nhu cầu nói trên. Thật vậy, người được nhờ để giao tiếp chỉ là một cái máy thâu,  một cái gạch nối giữa người sống và người chết, không hơn không kém. Chỉ có chị giám đốc nọ là người nuôi dưỡng bà hiểu rõ cuộc sống, tâm lý, nguyện vọng, mong muốn của người quá cố. Chị giải thích những biểu tượng, những tín hiệu mà người giao tiếp với vong linh nêu ra. Ðương nhiên, chỉ có chị là người duy nhất có thể giải mã được các biểu tượng.

1.
 Ðôi dép Nhật:

Trước khi bà mất khoảng một một tháng, ở bàn chân của bà có hai điểm đau, ở phía ngoài dưới ngón chân cái bà có cục xương to nhô ra và ngón út bị sưng và có mủ. Do đó, bà không thể đi dép có quai ngang bình thường như mọi người, vì nó chạm vào hai điểm đau. Chính vì lý do này, vong linh báo đi báo lại là cần một đôi dép Nhật, chứ không phải là đôi dép có quai ngang. Bình thường thì người già phải đi dép có quai ngang to cho chắc và khỏi té. Trong khi đó vong linh này lại đòi đi dép Nhật, thật là khó hiểu và vô lý! Nhưng chính điều này nói lên tính chất đặc thù của tín hiệu. Tính đặc thù này
 (dép nhật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần) đã xác nhận chất lượng của thông tin - có nghĩa là thông tin này đáng tin cậy. Thông tin này, tín hiệu này chỉ có mình chị giám đốc công ty nọ biết mà thôi.

2.
 Cái nhà:

Lúc trước, người quá cố này có một lô đất ở một tỉnh lẻ. Thủa đó cách đây trên nữa thế kỷ, thì lô đất này như một lô đất hoang, chẳng có giá trị gì về kinh tế cả. Bà đã cho một người quen thân xây một cái nhà trên lô đất này. Tuy nhiên, thời gian gần đây, với tốc độ Đô thị hóa của tất cả các Tỉnh, thì lô đất này đương nhiên phải có giá trị. Vong linh này khi còn sống, cho là khu đất của mình đã bị người ta chiếm đoạt, trong lòng luôn luôn bứt rứt khó chịu, muốn lấy lại chủ quyền, nhưng tuổi già lực bất tòng tâm. Chính vì lý do này, Vong linh muốn có một cái nhà.

3.
 Phương tiện đi lại:

Tất nhiên với tuổi 105 hay 107 gì đó, thì việc đi lại của bất cứ ai cũng trở nên khó khăn. Vong linh kể trên, lúc còn sống có một số người quen biết sống ở nước ngoài. Những người này đôi khi có gởi tiền cho bà, nhưng không phải thường xuyên. Số tiền này gởi qua một người trung gian, người trung gian này tên là "N", ông này thường lấy thêm lấy bớt. Mặt khác, bà có một số người quen biết, và bà cứ muốn đi thăm viếng, nhưng không đi được. Chính vì lý do này, vong linh muốn có phương tiện để gặp gỡ trực tiếp, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, tồn đọng trong kiếp sống thế gian.

4.
 Cái lọng, cái dù:

Biểu tượng của sự trợ giúp. Lúc còn sống, bà thường dặn dò người quen biết rằng nếu sau này khi bà mất đi thì mời Thầy về Cúng cho to lớn, càng nhiều, càng to càng tốt. Việc này đã được thực hiện, nhưng vong linh vẫn chưa bằng lòng, vẫn đề nghị với người còn sống thực hiện mong muốn này nữa.

5.
 Cái máy chữ:

Như phần trên có nói, bà có quan hệ với một số người ở nước ngoài, họ có gởi tiền về giúp bà, vì phải qua người trung gian, nên lúc có lúc không. Từ trước tới nay, bà chỉ mong có cơ hội để viết thư trực tiếp hay nói chuyện trực tiếp với những người ở ngoại quốc. Nhưng điều này bà không thực hiện được. Do đó nên đã có những bức xúc, bực dọc vong linh mang theo mình đến một cõi sống khác.

Ðây là một trong nhiều câu chuyện điển hình về việc thấy biết của một người tu Thiền Định khi Định Tâm.


Tam Tiểu Thư: 

-  Ồ! Ông hay quá. Vậy ông cho tôi hỏi tiếp là cụ thể, nếu mình muốn biết một việc gì, thì phải làm sao ông?

Tổng Quản: 

-  Người ta sử dụng kỹ thuật Thiền Định nhập vào lớp Định cao nhất có thể. Lớp Định càng cao thì mức độ chính xác càng cao. Chính tại đây, họ tập trung vào một đối tượng nào đó mà họ đã dự tính từ trước. Họ tập trung rõ ràng, mạnh mẽ, liên tục, thì rất có thể có khả năng các tín hiệu sẽ xuất hiện. Tuy nhiên, lớp Định phải tương thích với đề tài mà người Nhập Định muốn biết. Người nhập định không thể biết những vấn đề thuộc Cảnh giới cao hơn Cảnh giới mình đang hiện hữu. Thao tác này rất khó khăn, đòi hỏi Tâm của người tu Thiền Định phải mềm dẻo, dễ sử dụng, dễ uốn nắn, nhiều kinh nghiệm … Thật vậy, Nhập Định là một việc vô cùng khó khăn, chuyển đổi các lớp Thiền lại càng không phải là dễ. Còn chuyện sử dụng Định lực để làm một việc gì đó theo chủ ý mình mong muốn, thì e rằng rất hiếm người có khả năng làm được những việc này.

Tam Tiểu Thư: 

-  Việc ông nói tôi cũng hiểu được một phần nào. Chắc quý độc giả cũng có vị hiểu rõ, có vị chưa hiểu rõ. Thôi mình đành chờ một thời gian nữa, chờ Định lực được tăng lên, rồi chúng ta sẽ hiểu được toàn bộ. Tôi nhất định phải siêng năng tu tập để có ngày nào đó tôi xem coi chừng nào tôi lấy chồng, chừng nào tôi hết làm bảo tiêu, rồi chừng nào tôi chết nữa, rồi chết thì sẽ ra sao, sẽ về đâu ... À! Mà tôi quên hỏi ông, ông mở được Con Mắt Thứ Ba chưa ông, hay là ông chỉ toàn nghiên cứu Tạp Thư vậy?

Tổng Quản: 

-  Thôi mình tiếp tục di chuyển đi Tam Tiểu Thư. Nếu mình đi nhanh thì mới hy vọng ra khỏi đoạn đường nhiều nguy hiểm rình rập này trước khi trời tối. Cô cứ tu tập đi, rồi cô sẽ tự biết mà ...


(Còn tiếp)

Saturday, June 21, 2014




Những trở ngại khi Hành Thiền của Tam Tiểu Thư


Tam tiểu Thư vừa mở mắt thì thấy ánh bình minh đã phản chiếu trên nền trời xanh sau rặng núi xa xa. Cô ngồi dậy và chợt nhớ ra là đêm hôm qua, cô đã thực hành Thiền Định đến tận nửa đêm và sau đó cô đã đi vào giấc ngủ từ lúc nào không biết. Mới đó mà đã 1 tháng trôi qua kể từ ngày Tổng quản dạy cô kỹ thuật tu tập.

Đoàn bảo tiêu lại lên đường. Họ im lặng, di chuyển chầm chậm trên những con đường mòn luồn lách qua những khu rừng hoang vắng. Mây ngàn lờ lững trên
 triền núi, đèo dốc cheo leo, uốn vòng theo các thác nước, gió núi lồng lộng từng cơn. Suối reo, chim hót, vượn từng đàn hú vang một góc rừng.

Ông Tổng Quản (ân cần): 
    
   -  Tam Tiểu Thư à! Tôi thấy vài hôm nay cô có cái gì không ổn có phải không? Mọi khi tôi thường thấy cô vui lắm mà, nói cười luôn miệng. Sao hôm nay lại có vẻ đăm chiêu thế?!

Tam Tiểu Thư: 

  -    Ông nói đúng tâm trạng của tôi rồi. Những hôm đầu tôi tập tu Thiền Định theo đúng kỹ thuật một cách nghiêm chỉnh của cuốn Tạp Thư, thì mọi việc có vẻ tốt lắm. Kịch bản xảy ra đúng như dự kiến. Tôi chọn một mô hình Quán Tưởng dứt khoát, rồi tập trung tư tưởng một cách cao độ, mạnh mẽ và liên tục. Thế rồi trong giây lát, tôi từ từ mất đi ý thức. Thực ra lúc này tôi muốn nghĩ gì, cũng chẳng nghĩ được. Tôi mất khái niệm về không gian và thời gian, tinh thần thì sảng khoái; hạnh phúc xâm chiếm thể chất lẫn tinh thần. Tôi thấy thân thể cũng vui, tinh thần cũng vui. Tuy nhiên, điều cảm thấy bực mình nhất là việc này không diễn tiến được dài lâu. Sau đó tôi trở lại con người bình thường. À tôi quên, có lúc tôi thấy những điểm sáng, có lúc thấy một vầng sáng. Đôi khi tôi nghe thấy có tiếng nổ ở bên tai, tiếng nổ ở trên đỉnh đầu. Lúc đó con người lại càng cảm thấy dễ chịu. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời. Vì lý do này tôi mong buổi chiều mau đến để lại tiếp tục thực tập Thiền Định. Đôi khi tôi cũng thấy một vài hình ảnh nhưng mà chỉ thoáng qua thôi.

Sau khi tập vào khoảng một tuần lễ hay mười ngày gì đó, thì tình hình lại không như trước, mặc dù tôi vẫn tập tành chăm chỉ, vẫn làm đúng kỹ thuật như ban
 đầu. Ông có tưởng tượng được không?  Càng ngày tôi càng khó tập trung, thậm chí là không tập trung được. Sao lạ vậy hả ông? Có phải mình tôi tệ như vậy không? Thật là vô lý! Càng tập lẽ ra phải càng tiến bộ chứ? Ðằng này càng tập lại có vẻ lùi đi, càng ngày lùi càng nhiều, như thế là thế nào hở ông? Hay là tôi không hợp với Pháp môn này?

Tôi vừa buồn vừa lo, không biết thổ lộ với ai, định nói với ông thì sợ ông chê là Tam Tiểu Thư này chẳng ra gì! Hay là ông chỉ tôi cách tu khác đi, cách nào mà mình càng thực tập thì càng tiến. Tiến càng nhanh càng tốt, vậy nhen ông?!

Ông Tổng Quản: 

  -  Thôi mình tạm nói chuyện khác cho vui chút nhe. Tam Tiểu Thư à, cô còn nhớ cách đây vài hôm, đoàn bảo tiêu của mình bị bọn sơn tặc chặn lại ở núi Ngũ Hành Sơn không? Tôi còn nhớ, cô từ xa đã tấn công bọn sơn tặc bằng đòn đá bay của Hàn Quốc “Ap cha se gi”. Nhưng bọn nó đông và lại quá khỏe nên cô bị té nghiêng. Cô biến thế sử dụng đòn “Hằng Nga Vọng Nguyệt”. Một số trúng đòn la lên bỏ chạy. Cô không chịu thua, bật dậy truy đuổi và ra đòn “Ðề si ray” của nhu đạo; quét ngã một vài đứa … Cô thành công vì có thể lực tốt, đang tuổi sung sức, đầu óc thông minh, lại được khổ luyện từ nhỏ, ngày nào cũng thao dượt. Việc tập võ chúng ta chỉ tập có một cái thân thể, tập hai tay và hai chân. Vậy mà cô phải tập cả một đời mình để có được bản lĩnh ngày hôm nay. Cô có nhớ Vũ công Thùy Vân xinh đẹp của chương trình "Paris by Night" không? Cô ấy từng tập múa từ năm mới có 7 tuổi và kéo dài 20 năm.

Những công việc tập luyện võ thuật, múa … là công việc tập luyện của cái thân vật lý, cái thân vật chất.

Còn tập Thiền Định là tập luyện cái thân tinh thần. Có lẽ việc này khó hơn một chút, vì số lượng chi tiết để tập luyện lớn hơn rất nhiều. Cụ thể mà nói là nhiều gấp hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu, thậm chí là hàng tỉ lần.

Người Tây phương cũng có những bộ môn để mô tả về các yếu tố tâm lý; khi vận hành trở ngại gây ra bệnh tật:

*
 Tâm lý học: Được gọi là khoa học mô tả.
*
 Ðạo đức học: Đó là khoa học tiêu chuẩn.
*
 Luận lý học: Khoa học nhằm đạt được sự thật. 
*
 Luận lý hình thức: Khảo cứu về chiếc cầu nối giữa chủ thể và đối tượng. 
*
 Siêu hình học: Giả thuyết về nguyên nhân đầu tiên và cứu cánh cuối cùng. 
*
 Phân tâm học: Có thể coi đó là một bộ môn tìm hiểu về tâm lý chiều sâu.
*
 Tâm thần học: Được đánh giá như là một bộ môn cho biết tâm lý con người là một bộ phận quan trọng cũng như các bộ phận khác của cơ thể. Nó có thể ảnh hưởng tới một vài bộ phận hay nhiều bộ phận của cơ thể vật chất. Người Ðông phương có tài liệu Vi Diệu Pháp, có thể coi như một bộ môn mô tả những gì đã cấu tạo ra những Thực Thể, vận hành Tâm lý của các Thực Thể, trình bày về Cảnh Giới. Vi diệu Pháp mang lại niềm hy vọng cho các Thực Thể vì một tiến hóa tích cực của ngày mai. Vẫn theo tài liệu này, thì một con người bình thường có vô số các loại cơ thể song song. Theo Phân tâm học của trường phái Freud, thì con người ít nhất cũng có ba con người , hay ba trạng thái khác nhau trong một con người.

Với những khái niệm trình bày sơ lược ở trên; thì tu Thiền Định có nghĩa là chúng ta tập luyện cơ thể Tinh thần. Như phần trên đã trình bày, cơ thể này có quá nhiều bộ phận. Chúng ta muốn tập cho nó cử động theo ý muốn của mình là một vấn đề có lẽ khó khăn. Những bộ phận của cơ thể Tinh thần vận hành theo bản năng khách quan vốn có, thế mà chúng ta lại muốn nó vận hành theo ý muốn của mình. Nó muốn chơi, muốn nghỉ ngơi thì mình lại muốn nó phải làm việc, học hành và tuân thủ nguyên tắc đạo đức. Đây dường như là một cuộc đấu tranh nội tâm, mà Phân tâm học coi như là hạ tầng cơ sở của sự dồn nén.
 

Tam Tiểu Thư: 

-  Ông nói có lý, tôi hiểu ra một phần nào rồi.

* Cái thân vật chất chỉ có hai chân, hai tay, một cái thân. Vậy mà muốn tập võ cũng khá vất vả, mất cả đời người là chuyện bình thường.

* Cái thân tinh thần, thì dù là Ðông phương hay Tây phương, đều công nhận nó có quá nhiều chi tiết: Ngàn tay, ngàn chân, ngàn thân … nhiều vô số kể.

Vậy thì việc tập luyện phải tốn nhiều kiếp người cũng là lẽ thường tình. Ông Tổng quản ạ, tôi đọc trên các trang web thấy có những người chỉ tập luyện có vài tháng trong việc tu Thiền Định mà thành công thì phải bảo là một kỳ tích, đáng ghi vào sách kỷ lục. Quay lại chuyện của tôi, bây giờ cũng phải có cách nào đó chứ. Chẳng lẽ bó tay sao?


Ông Tổng Quản: 

-  Khi cô tập trung tư tưởng lâu ngày trên một đối tượng (còn gọi là Công án để tu Thiền) thì nó sẽ bị lờn. Cách đơn giản nhất là đổi Đối tượng để Quán tưởng hay để tập trung tư tưởng.

Tam Tiểu Thư: 

-  Ông nói đúng rồi, mấy hôm nay khi tôi ngồi công phu, hay nghĩ vẩn vơ đủ thứ. Nhớ đến việc hôm trước, nghĩ đến việc ngày mai. Tôi còn nghĩ không biết việc làm bảo tiêu sẽ kéo dài được bao lâu. Ông coi đó, suốt ngày này tháng nọ, mình toàn lang thang nơi chân mây, đầu núi thế này, thì cơ hội lấy chồng rất khó! Chưa hết đâu, tôi còn bực bội nổi khùng lên vì các bảo vệ không nghe lời, mất cảnh giác, tụm năm, tụm ba, nói chuyện ồn ào; không để ý đến các hiểm nguy rình rập xung quanh. Cứ thế rồi tôi ngủ mê đi lúc nào không biết. Có lúc tôi lại nghi ngờ không biết mình tập thế này có đúng hay không? Cuốn sách Bửu Bối mà ông hay gọi là cuốn Tạp Thư có đáng tin cậy hay không nữa đây?

Ông Tổng Quản: 

-  Những vấn đề cô đề cập tới, cuốn Tạp Thư ghi sẵn cả rồi! Trong đó có ghi sẵn có một cô gái tên là Tam Tiểu Thư, lúc công phu Thiền Định để mở Đệ Tam Nhãn, thì rơi vào những trở ngại kinh điển nêu sau:

*
 Tham dục: Nghĩ tới việc lấy chồng.
*
 Hôn trầm: Ngủ mê đi lúc nào không biết.
*
 Sân hận: Bực tức vì bảo vệ mất cảnh giác trên đường đi.
*
 Phóng tâm: Nghĩ tới việc hôm qua, nghĩ tới việc hôm nay.
*
 Hoài nghi: Nghi ngờ về phương pháp tu Thiền Định; nghi ngờ về tính chất trung thực của cuốn Tạp thư, cụ thể là mã số Bodyguard.

Tam Tiểu Thư à! Ai cũng như vậy cả thôi, bằng cớ là người ta đã ghi sẵn trong các tài liệu tu Thiền Định. Chẳng ai là Thần Thánh cả đâu. Việc này hết sức bình thường. Ai tu Thiền Định cũng gặp những trở ngại như thế này, vì vậy cô nên chấm dứt âu lo. Cuốn Tạp Thư có ghi toa thuốc sẵn để trị những bệnh nói trên. Những bệnh này chẳng có gì là bí ẩn cả!


Tam Tiểu Thư: 

-  Tôi sốt ruột lắm, ông nói cho tôi nghe đi!


Ông Tổng Quản: 

-  Trước nhất cô cần biết rằng, cách trị sau đây chỉ mang tính chất chữa triệu chứng nói theo kiểu y khoa. Nó chỉ là giải pháp tình thế, mang tính chất tạm thời. Về lâu về dài, cô phải học về Tâm lý học, Phân tâm học, Vi Diệu Pháp, Cơ thể học, Sinh lý học … để tự giải quyết một mình. Mình là Thầy của chính mình, nhờ vào sự hiểu biết chính xác và cặn kẽ và không cần một sự trợ giúp nào cả. Cô nên học đi, để đạt được tự do. Không lẽ cả đời cứ phải lệ thuộc vào ai đó? Phần thưởng của việc học tập này, chính là sự giải thoát bản thân.

Tam Tiểu Thư này, cô nên hiểu sơ qua về vấn đề
Đối Tượng để tập trung tư tưởng. Khi cô hiểu vấn đề thấu suốt, thì mình tự tìm Đề Mục cho mình, tự tìm Công án, Đối Tượng để Quán Tưởng. Rất có thể những người mà trước nay cô nghĩ là Thầy, cũng chưa chắc họ đã hiểu rõ vấn đề. Họ làm công việc này theo cách cầu may, tự phát; không có một cơ sở lý thuyết và kỹ thuật nào cả.

Tâm lý học Phương Tây cũng như Phương Ðông, đều cho biết tâm lý con người trôi chảy liên tục như một dòng sông không ngừng nghỉ. Tâm lý con người cũng vậy. Muốn ngăn chặn cho tâm lý đừng trôi chảy thì chúng ta phải có một cái gì đó làm
đề mục tập trung để nó chú ý và đứng lại, không tiếp tục chảy nữa.

Vì lý do này, người tu Thiền Định sử dụng một Đối Tượng để mời mọc, để đánh bẫy tâm lý của chính mình. Vì chú ý tới Đối Tượng này, nên Tâm đứng im.

Tam Tiểu Thư: 

-  Ồ! Ông hay quá! Ông cho tôi hỏi là Đối Tượng nào, có những đặc tính gì, thì được tâm lý của chúng ta chú ý tới, mà quên đi việc chuyển động hả ông?

Ông Tổng Quản: 

Một Đối Tượng có những yếu tố sau đây thì tâm lý chúng ta sẽ chú ý tới và dừng lại:

* Ðối tượng đó phải kỳ lạ.
* Ðối tượng đó phải được tâm lý của mình ưa thích.
* Ðối tượng đó phải có lợi đối với tinh thần chúng ta.
* Ðối tượng phải gây ấn tượng rất mạnh: Như một tia chớp, tiếng bom nổ.

Rất mong Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả quan tâm đặc biệt những yếu tố nói trên khi chọn đối tượng để Quán Tưởng (đề mục).

Về mặt giác quan, thì thị giác là quan trọng nhất sau đó là thính giác.


Tam Tiểu Thư: 

-  Nhưng tôi thắc mắc là tại sao chúng ta sử dụng một Đối Tượng để Quán Tưởng trong việc tu Thiền Định, lúc đầu thì tốt, lúc sau thì không tốt? Ông nói nó bị lờn nghĩa là sao ông?

Tổng Quản: 


-  Cuốn Tạp Thư cho biết đây là câu hỏi của tất cả mọi người tu Thiền Định dù bất cứ ở đẳng cấp nào đều gặp phải. Theo tâm lý học cho biết, khoái lạc và đau khổ là hai thái cực tình cảm của con người. Khoái lạc không thể kéo dài mãi mãi, khoái lạc kéo dài sẽ trở thành đau khổ. Thí dụ: Khi đói chúng ta có thể ăn đến một chừng mực nào đó, thì việc ăn này là khoái lạc; nhưng ăn quá no lại là một khổ đau. Tình trạng tinh thần cũng vậy, đừng ngớ ngẩn và ngây thơ hy vọng có một tình yêu vĩnh cửu. Phân tâm học cho biết, con người là một con thú đi tìm khoái cảm và tránh né khổ đau.

Tóm lại:

* Muốn việc Quán Tưởng được tốt, thì luôn luôn phải thay đổi Đối Tượng. Khi Tâm đứng im thì đương nhiên trị được những Bất Thiện Tâm kể trên: Sân hận, tham dục, hôn trầm, phóng tâm, hoài nghi.

* Ðối tượng càng phức tạp, thì làm cho các giác quan càng phải tập trung dữ dội. Việc này sẽ đưa tới sự Định Tâm tốt hơn, có thể sử dụng kỹ thuật này lâu hơn; nhưng cũng không thể sử dụng được mãi mãi. Cuối cùng, cũng phải thay đổi Đối Tượng.

Chúng ta lấy một thí dụ nêu sau: 


* Chúng ta hãy tập trung hình dung vị Quán Âm Tự Tại bằng trí tưởng tượng. 
* Cũng bằng trí tưởng tượng chúng ta nghe thấy âm thanh của Chân Ngôn:  

" Om mani padme hum "

Chúng ta phải vừa nhìn thấy (quán tưởng) một cách rõ ràng trong tưởng tượng, và cũng phải nghe thấy âm thanh từng chữ một rõ ràng trong tưởng tượng.


Nếu là người Công giáo, quý độc giả có thể chọn hình tượng Ðức Mẹ Maria.
Quý vị phải nghe bằng tưởng tượng kinh Kính Mừng:

 Kính mừng Maria đầy ơn phước, Ðức Chúa trời ở cùng Bà,
Bà có phước lạ,
 hơn mọi người Nữ  Giê Su con lòng Bà cùng phúc lạ.
Thánh Maria,
 Đức Mẹ Chúa Trời,
cầu cho chúng con là kẻ có tội,
 khi nay  trong giờ lâm tử.
Amen ”



Chúng ta phải tưởng tượng cao độ để nhìn thấy Ðức Mẹ Maria,
từng chi tiết rõ ràng, với hào quang rực rỡ, muôn màu.

Chúng ta cũng nghe bằng tưởng tượng một cách rõ ràng Kinh Kính Mừng,
từng chữ một, trong khi đang nhắm mắt. 



 Nếu quý vị là người chẳng có Tôn giáo nào cả, thì quý vị cũng làm như trên, hoặc chọn một vị nào đó trong lịch sử hay là thân nhân của mình.

* Lý do nào khiến chúng ta sử dụng những "Vị" nào đó để Quán Tưởng thì sẽ được đề cập đến sau này. Vì tài liệu này chưa đi vào chiều sâu, nên chúng ta chưa có thể đề cập đến quá nhiều chi tiết  làm cho quý độc giả không thể nhớ được trong khi thực tập.

Tam Tiểu Thư: 

-  À! Tôi biết rồi. Hôm nay tôi sẽ đổi đề mục sang Quán Âm Tự Tại nhe ông Tổng Quản. Thank you ông nhiều nhen ông.

Ánh nắng bắt đầu dịu bớt. Từ đằng xa vọng lại tiếng Đại Hồng Chung của ngôi Chùa Cổ trên triền núi … Tam Tiểu Thư thấy tâm hồn mình bình an yên tĩnh.