Wednesday, January 29, 2014



Sao Mai says:

Em xin chào chị HHN!

Chị HHN à! Đây là một blog có nội dung về lãnh vực tu thiền định, vậy mà em thấy  có khá nhiều bài viết mà với kiến thức nông cạn của em, thì hình như không liên quan gì đến thiền định cả. Em phải công nhận là những bài viết trong trang blog của chị rất giá trị, công phu, thí dụ như những bài thuyết minh về tài liệu Vi Diệu Pháp,v.v…Em nghĩ có lẽ chị có tâm sự gì đó khó nói.

HHN says:

Chị xin chào Sao Mai!

Đúng như em nói, chị không những có tâm sự mà rất nhiều tâm sự, làm cho chị e dè khi trình bày về đề tài tu thiền định. Thật vậy, chị chủ quan cho là, đây là một đề tài tài xa lạ với tất cả mọi người, kể cả đối với những người tu, phải bảo là một điều đáng kinh ngạc là nó xa lạ kể cả với những người đang tu thiền định! Thậm chí là với những người đã tu thời gian rất lâu, cả đời người không chừng! Rõ ràng đây là một nghịch lý! Chắc chắn những vị tu thiền định lâu năm, sẽ cảm thấy không được vui vì nhận xét này. Điều này cũng không phải quá khó để giải thích, thực tế người ta tu vì quán tính, người này bày vẽ cho người kia. Nhưng chúng ta nghĩ sao khi có người phát biểu “ Mù lý thuyết và mù thực hành”! Chúng ta thử phỏng vấn ai đó tu thiền định ở trong một cái cốc hẻo lánh trong rừng xem, sẽ có một kết quả cho thấy rằng họ chẳng có một lý thuyết nào cả, và cũng chẳng có mô hình chuẩn nào cả về việc thực hành. Chị xin trình bày một câu chuyện hoàn toàn có thật. Có một lần được gặp một vị thiền sư nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam, cơ sở tôn giáo ở Long Thành, đường đi Vũng Tàu. Với dáng vẻ bề ngoài phải nói là tiên phong, đạo cốt, ở trong những dãy lều, mái tranh, tường đất, ở khá sâu trong rừng. Ngài là trưởng môn của một trường phái tu thiền định. Hầu hết mọi người gặp ngài, ngài đều bảo “Về tịnh đi” và chỉ có thế. Riêng đối với chị, ngài có bảo “nên tu thiền định”, chị có hỏi tu làm sao? thì ngài trả lời “ Cửu niên diện bích” (có nghĩa là 9 năm quay mặt vào tường), chị hỏi lại: 9 năm quay mặt vào tường thì được cái gì? Câu trả lời của  Ngài là: “ Việc này hơi bị khó đây, thôi để tính sau”. Chị chỉ xin tường thuật lại một giai thoại, phần đánh giá, bình luận comments xin dành cho Sao Mai và quí độc giả.

Sao Mai says:

Chị có nghĩ là, mình nói như vậy là đụng chạm tới nhiều người không?! Em thỉnh thoảng xem trên tivi, thấy có nhiều vị thầy Ấn Độ biểu diễn các vị thế bên cạnh nhiều người phụ nữ. Theo em hiểu thì đó là những nhà Yogi, em nói không biết có đúng hay không, nó thuộc trường phái Hatha Yoga…. Trường phái nào thì trường phái, cuối cùng những nhà Yogi cũng phải tu thiền định. Chưa kể là đến những thiền sư người Việt Nam nổi tiếng thế giới, có tên trong wikipedia…Họ có những tài liệu cho biết rằng họ đi, đứng, nằm, ngồi, đều thanh tịnh, nếu không muốn nói là nhập định. Em vô cùng thán phục, mà em chắc nhiều người cũng có tâm trạng như em.

HHN says:

Một sự thật mà có lẽ chẳng ai muốn biết đến, vì nó làm vỡ tan những ảo mộng của con người! Đó là ngay trong trang blog này, cũng có những hình ảnh vẽ những người tu thiền định, được ngồi trong những vị thế Kiết già hay hoa sen, cho chúng ta một ấn tượng như một vị Phật sống. Họa sĩ còn tô điểm hào quang rực rỡ lên những bức tranh. Chị xin phép trình bày sự thật cùng Sao Mai như sau:

Người ngồi tu thiền định thực sự không hề ngồi ngay ngắn kiểu kiết già hay hoa sen. Phần đông họ sống cuộc sống khó khăn và phải nói  là hết sức buồn nản, lặng lẽ, phương tiện thiếu thốn. Khi ngồi công phu thực sự thì phải tìm vị thế nào đó phù hợp với tuổi tác, sức khỏe của mình. Đến khi thực sự nhập định được, họ thường đổ sụp xuống, chẳng ra kiểu cách nào cả…. Tóm lại, thực tế tu thiền định và nhập được định hoàn toàn khác hẳn với những bức tranh do  đầu óc tưởng tượng của các họa sĩ vẽ ra. Còn hơn thế nữa, để đảm bảo không bị đổ sụp trong lúc thiền định, không làm hư hỏng thần kinh, mạch máu, cơ bắp… người tu thiền đã có kinh nghiệm đạt được định thực sự, họ hay chọn vị thế của người chết, có thể nói đây là vị thế an toàn nhất, có thể nhập định được lâu nhất, không làm hư hỏng cơ thể vật chất. Thưa quí độc giả cùng Sao Mai, tâm trạng của người nhập định được là mong sao mình mau nhập định, làm sao không bị thối định, chỉ xuất định khi mình muốn. Để phòng ngừa chướng ngại về cơ thể vật lý, không ai bảo ai, người ta đều chọn vị thế nằm. Cách ngồi kiểu cách, cầu kì chỉ mang tính biểu diễn nhưng không mang tính chất hiệu quả. Tất nhiên, người tu thiền đạt được định thực sự, họ đặt vấn đề chất lượng chứ không đặt vấn đề số lượng, thẩm mỹ…Chắc chắn bất cứ ai thực sự tu thiền định có những kết quả nhất định, đều mang tâm trạng bất cần tất cả mọi thứ, chỉ đặt vấn đề chất lượng của các lớp thiền định.

Sao Mai says:

Chị HHN à! Đúng với đầu đề chị nói, sự thật  không hề che đậy về thiền định. Không phải một mình em lầm, mà có lẽ nhiều người cũng lầm, mà phải bảo là lầm chết đi được. Em hiểu một điều là những ai đắc định thực sự thì họ mâu thuẫn với vấn đề nổi tiếng; còn những vị thiền sư nổi tiếng, thì em e ngại là khó đắc định, vì nó mâu thuẫn từ bản chất, nghe thì có vẻ buồn cười, nhưng có lẽ đó là sự thật.

HHN says:

Rất mong được quí độc giả cùng Sao Mai đồng cảm nếu vậy chúng tôi xin phép trình bày hai trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ 1: Ai quan tâm tới bộ môn thiền định, có lẽ không lạ gì thiền sư Suzuki người Nhật Bản, tên này cũng giống như thương hiệu một hãng xe của Nhật nên rất dễ nhớ. Người ta thường gọi vị này là “Thiền sư”, tác giả của một từ  ngữ nổi tiếng “Satori”. Từ ngữ này cũng nổi tiếng như từ ngữ “Libido” của trường phái phân tâm học. Mong quí độc giả không ngộ nhận, ý nghĩa của hai từ ngữ hoàn toàn khác nhau, không liên quan gì với nhau. Trong đời tu thiền định của ông, ông có sống với hai người phụ nữ, có lẽ đến phút chót cuộc đời. Để mang tính chất khách quan, Sao Mai cùng quí độc giả vui lòng truy cập trên trang web, mở từ điển Wikipedia về đề tài này thì sẽ rõ.

Câu chuyện thứ 2 là: Ở tại Việt Nam, có một vị có chức Cha thuộc trường phái Cơ Đốc giáo, ngài là giảng sư của bộ môn “ Triết học lịch sử” ( mong quí độc giả không hiểu lầm rằng đây là bộ môn Lịch sử triết học, hai bộ môn này hoàn toàn khác nhau). Vị giảng sư này là thần tượng của nhiều sinh viên lúc bấy giờ. Trước năm 1970, nói theo thế gian thì gọi là ngài hoàn tục. Cụ thể là ngài lập gia đình với một cô sinh viên nào đó. Rất có thể nhiều quí độc giả không rõ về việc đào tạo các vị Cha của Cơ Đốc giáo, chức vụ Cha có thể cho là tương đương với tiến sĩ thế gian. Muốn làm giảng sư tại một trường đại học ở Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, thì ít lắm cũng phải có bằng cấp tiến sĩ Đệ Tam Cấp hay tiến sĩ Quốc gia.

Người ta có thể đưa đến một nhận xét như sau: Hai người tu ở hai trường phái khác nhau, họ đều là người có hiểu biết, có kiến thức sâu rộng, thành danh trong lúc đương thời. Nhưng chính vì có sự hiểu biết, nên không muốn dối gạt mình, dối gạt người, họ quay về với cuộc sống thực tế, có lẽ tìm lại chính mình trong cuộc sống bình thường.

Sao Mai says:

Đúng như chị nói, em nghĩ là nhiều quí độc giả cũng như em, có lẽ không am tường lắm về hai giai thoại nói trên và có lẽ còn nhiều giai thoại khác nữa.

Chị HHN à! Em cảm thấy bức tranh thiền định của chị có vẻ quá ảm đạm và bi quan, trái ngược hoàn toàn với những bức tranh thiền định mà người ta thường trình bày cho mọi người biết. Nếu đặt giả thuyết là những điều chị trình bày là xác thực, thì chúng ta phải làm sao chị nhỉ? Cuộc sống đã nhiều buồn phiền, âu lo, lại càng bi quan hơn nữa. Người ta còn bảo “ Nước mắt còn nhiều hơn bốn biển”, vậy mà chọn con đường tu thì cũng chẳng phải là việc dễ dàng gì.

HHN says:

Chị không nghĩ là những điều mình trình bày bao phủ sân chơi thiền định, những màu sắc ảm đạm, bi quan. Chị chỉ muốn nói lên một sự thật không che đậy. Chúng ta cần phải phơi bày sự thật nếu muốn tiến bộ. Theo chị nghĩ, phải có những thông tin chính xác, phải có những sự tiếp thu, nhận xét, suy nghĩ khách quan trước khi bước vào một trường phái nào đó. Chị cho là kết quả cuối cùng sẽ là điều quan trọng nhất để đánh giá một phương pháp tu hành. Thật vậy, mặc dù có rất nhiều trường phái - mà quí độc giả có thể nhận biết một điều - theo truyền thuyết cũng như thực tế, có lẽ chỉ có những người tu thiền đắc định thực sự mới có khả năng bỏ lại xác vật lý ra đi ở thời điểm cần thiết. Đúng vậy, kể cả các trường phái nổi tiếng thế giới với số lượng tín đồ đông vào bậc nhất, bậc nhì, đến khi chết, họ cũng chết như một người bình thường. Họ chẳng có khả năng nhập định để bỏ lại thân xác vật lý ra đi. Nói cụ thể là, họ bị chết dù muốn hay không muốn, và có lẽ họ không thể chọn được một kỹ thuật nào đó để chết theo ý muốn chủ quan của mình.

Sao Mai says:

Chị nói làm cho em nhớ ra, giáo chủ của trường phái Hồi giáo hình như cũng chết vì nhiễm trùng cơ  thể, cụ thể là bị sốt cao. Ngài Huệ Viễn đại sư Trung Quốc, giáo chủ, người khai sinh ra trường phái Tịnh Độ Trung Quốc, cũng chết vì bệnh…Vậy mà, em xem trong tài liệu tự thuật của tác giả Yogananda, thực hư thì không biết lấy đâu mà nói, ông có kể lại một số vị sử dụng kỹ thuật thiền định, chào mọi người rồi bỏ xác ra đi. Có lẽ tu thiền định là đúng. Cái khó là biết tìm đâu ra trường phái thiền định nghiêm chỉnh với phương pháp đúng đắn nhất để có thể nhập định và phát triển các bước tiến hóa về tâm thiền! Chị có đồng ý với em không? Thời buổi này, hàng nhái quá  nhiều, thật là đáng lo!


Xin trân trọng kính toàn thể quí độc giả!


Sao Mai.



Kính thưa quý độc giả!

Có lẽ không có từ ngữ nào mà lại có ý nghĩa mơ hồ ( Ambiguous) như những từ ngữ nói trên. Người ta thường nói:

Tôi đi học
Ich gehe  nach schule
Je vais a l’ecole
I go to school

Tuy nhiên, chúng ta nói “ Tôi đi tu”, các ngôn ngữ khác lại không nói như vậy. Thí dụ: To Practice  meditation, To Meditate, Contempletion. Quý độc giả vừa xem xong, đó là một số chữ tiếng Anh. Tiếng Pháp có một số động từ như sau: Entrer en religion, Se faire religieux, l’ homme essaie d’entrer en relation avec le surnaturel. Qua một số từ ngữ của hai ngôn ngữ phổ thông nói trên, người ta vẫn không tìm thấy một câu nào đó có ý nghĩa tương tự như người Việt Nam thường nói: Tôi đi tu, Anh đi tu…

Có lẽ từ ngữ này thoát thai ít nhiều từ chữ Hán mà ra. Tu có nguồn gốc chữ Hán là: sửa sang, sắp xếp. Tu hành gồm có hai chữ tu và hành, có ý nghĩa là: tu dưỡng, thực hành. Theo một giáo lý tôn giáo nào đó, tu đạo gồm hai chữ: tu và đạo, sửa sang và tiết chế cái tự nhiên, bớt chỗ thái quá, bù vào chỗ bất cập. Tu tiên gồm có hai chữ: tu và tiên, tu như trên đã nói là sửa trị, tiên là gồm có bộ nhân và sơn, tiên có nghĩa là người ở trên núi.

Vẫn theo nghĩa tiếng Hán, từ “Tu” có rất nhiều chữ đồng âm, dị nghĩa. Ví dụ có những từ cùng một âm, nhưng lại có những ý nghĩa khác nhau như là: râu, cỗ bàn, tiễn cử, trị, đợi chờ.

Kính thưa quý độc giả!

Chỉ mới tìm cách định nghĩa, xác định ý nghĩa của những từ ngữ nói trên, chúng ta cũng thấy tính chất mơ hồ quá rõ ràng; trong khi từ ngữ “tôi đi học” thì ý nghĩa của ngôn ngữ nào cũng khá giống nhau. Đó là ở đây chúng ta còn chưa kể tới nguồn gốc và mục đích của việc đi tu. Vậy nguồn gốc và mục đích của việc tu hành là gì? Có lẽ chỉ có một cá nhân duy nhất trong lịch sử loài người là Sakya Muni – thông qua quá trình thiền định và căn cứ vào việc quan sát các hiện tượng tự nhiên, Ngài đã tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng: sanh, lão, bệnh, tử… Và đưa đến xây dựng chủ thuyết về lý vô thường vô ngã, khổ não qua sự kiểm chứng trên thực tế (mà ai cũng có thể làm được). Ngài xây dựng lý thuyết Phật giáo và đưa vào ứng dụng như một chủ thuyết.

Điều đáng quan tâm là: việc chọn con đường tu hành của Ngài không có sự mặc khải của Thượng Đế (tức là không có sự hiện hữu hay tác động của Thần linh, Thượng đế). Tiến trình này phù hợp với khoa học hiện đại; một là quan sát các hiện tượng tự nhiên, hiểu biết, sau đó xây dựng lý thuyết; hoặc xây dựng lý thuyết, tiên đoán các hiện tượng trong thế giới tự nhiên ( như việc tiên đoán là vũ trụ cong bằng lý thuyết). Do đó trường hợp này, chúng ta có thể bảo rằng: có một không hai. Thật vậy, đại đa số các tôn giáo  lớn thì mang nặng tính chất tôn giáo đúng nghĩa của mình, bao giờ cũng có sự can thiệp, chỉ đạo của Thượng Đế, trực tiếp bằng mặc khải hoặc gián tiếp bằng các nhà tiên tri hoặc Thần linh. Điều này quý độc giả có thể tìm thấy ở những tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất thế giới.

Ít nhất ở tại xã hội Việt Nam, hình như ngày hôm nay, việc tu theo một tôn giáo nào đó có vẻ như một phong trào. Chúng ta có thể tự hỏi, đến một lúc nào đó, trên quãng đường còn quá dài cho một người tu trẻ tuổi, họ sẽ suy nghĩ ra sao, hay là phóng lao thì đành phải theo lao…. Liệu người ta có thể tin rằng những người còn trẻ tuổi đi tu do ý thức được cuộc đời là vô thường, vô ngã, khổ não, hay chỉ tu vì phong trào.

Chúng ta thử quan sát một nơi bán kinh sách và các dụng cụ trang thiết bị bàn thờ ở một ngôi chùa (có lẽ lớn  nhất tại Sài Gòn), người ta chỉ thấy hầu hết là những người phụ nữ ở một độ tuổi nào đó, không còn việc gì làm nữa trong xã hội, lui tới nơi này! Hầu như chúng ta không thấy những công dân trẻ tuổi đi ra, đi vô mua bán ở đây. Nói về mục đích tu, thì hầu như mọi người cơ bản là cầu phước, cầu tài và kể cả cầu tình. Nói như vậy, người ta cũng không thể phủ nhận có những người thực sự tìm hiểu, khảo cứu, thực hành thiền định với những mục đích nghiêm chỉnh. 

Căn cứ vào tài liệu “Biết và Thấy” của tác giả Pa – Auk Sayadaw. Ở trang 254, cho biết một giai thoại như sau:

“ Một trong những tiền kiếp của đức Phật, Ngài đã từng là võ sĩ. Có lần Ngài đã đánh ngã một đối thủ và làm gãy lưng người này. Bất thiện nghiệp ấy khi chín muồi, đã cho quả của nó, đó là mười tháng trước ngày nhập Vô Dư Niết Bàn của Ngài, Nghiệp quả ấy đã trổ sanh và  mạnh đến độ nó kéo dài cho đến lúc chết.

Đức Phật đã ngăn không cho thọ khổ đó khởi lên nhờ nhập Alahán Thánh Quả định. Đức Phật quyết định: kể từ hôm nay cho đến ngày nhập Niết Bàn, mong cho những thọ khổ này không khởi lên. Chính nhờ nỗ lực của minh sát và định lực. Do đó, thọ khổ đã không khởi lên trong mười tháng còn lại, cho đến ngày nhập Niết Bàn Vô Dư. Nhưng trong thời gian đó, mỗi ngày đức Phật đều nhập Thánh Quả đều đặn”.

Trong phần lấy từ tài liệu “ Biết và Thấy” nói trên, người ta có thể đưa đến hai nhận xét:

1.                Kể cả ngài Sakya Muni cũng phải tập luyện thiền định liên tục, không bỏ bất cứ một ngày nào cả.

2.                Bản thân Sakya Muni, khi còn thân xác vật lý, cũng phải tìm cách xa rời đau đớn cho thân xác. Ngài sử dụng thiền định như một loại thuốc giảm đau, nhưng ngày nào cũng phải sử dụng. Điều này hiện nay đã được con người thay thế bằng các loại thuốc giảm đau như: Paracetamol, Nisidina, Morphine….

Qua phần trên, quý độc giả  có thể nhận thấy quan điểm của Sigmund Freud – cha đẻ của bộ môn phân tâm học ( psychanalyse) là chính xác. Giả thuyết hàng đầu quan trọng nhất của ông được phát biểu như sau: tìm kiếm hạnh phúc, khoái lạc (plaisir) và tránh né khổ đau (eviter la douleur); đó chính là cấu tạo tâm lý cơ bản con người, nó là nguyên lý nền móng của bộ máy tâm lý.

Nói rộng hơn, tu hành, tu đạo … không nằm ngoài phạm trù của những lời phát biểu nói trên. Các tôn giáo nói chung, đều hứa hẹn với tín đồ của mình một vùng đất hứa nào đó, một thiên đường cực lạc nào đó…có khác nhau chỉ là vấn đề danh xưng.

Vẫn theo tác giả Sigmund Freud, tu hành chẳng qua chỉ là  sự thăng hoa (Sublimation), sự giải phóng (Defoulement) của năng lượng tình dục (libido). Trường hợp của Lan và Điệp, cô Kiều của Nguyễn Du và nhiều trường hợp khác, là một dạng khá phổ thông trong xã hội Việt Nam, đó là dạng Masochisme (tự kiềm chế và hành hạ bản thân mình), ngược lại là dạng Sadisme – là làm khổ đau tinh thần của người khác. Thực tế là: khi không thực hiện được mục đích như mình mong muốn, người ta đi một con đường vòng, là hành hạ chính bản thân mình để làm khổ người khác, có thể bảo đây là một dạng Sadisme thụ động, tiêu cực.


Người ta giả thuyết rằng, khi con người mới xuất hiện trên trái đất, với trí tuệ rất khiêm tốn, người ta không phân biệt được chủ thể và đối tượng, người ta không thể tin là có những vật vô tri, vô giác, người ta tưởng là các sự vật, hiện tượng ở thế giới tự nhiên cũng ẩn tàng cấu tạo tâm lý như mình. Hiện tượng điển hình nhất là việc thờ cúng vật tổ (Totem). Chính vì lý do này,  mà các chuyên gia cho là: nguồn gốc của thần thoại học, tôn giáo học và kể cả thẩm mỹ rất giống nhau.

Trong kho tàng văn chương của Việt Nam nói riêng, dưới con mắt của các nghệ sĩ, việc tu hành, tôn giáo mang nặng  tính chất nghệ thuật:

          “ Lững lờ khe yến cá nghe kinh
          Thoảng bên tai một tiếng chầy kình
          Khách tang hải giật mình trong mộng
          …
                   Lần tràng hạt, niệm nam mô phật”

Đó là cái nhìn của nhà thơ Chu Mạnh Trinh khi đi thăm viếng một cơ sở tôn giáo.
Với nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, tính chất lãng mạn được đẩy lên một tầm cao hơn nữa:

          “ Hôm qua em đi chùa Hương
          Hoa cỏ mờ hơi sương
          …
          Thẹn thùng em không nói
          Nam mô A Di Đà”.

Với tác giả Nguyễn Du, mượn lời nói của Giác Duyên, trình bày quan điểm của mình khi khuyên cô Kiều đi tu:

          “ Cõi nguồn cũng ở lòng người mà ra
          Có trời mà cũng có ta”

Rồi ông kết luận thế nào là hạnh phúc?!

          “ Tu là cõi phúc, tình là giây oan”

Nghệ thuật bình dân của người Miền Nam là họ có đồng quan điểm cho rằng việc tu hành có thể quá sức con người:

          “ Bần tăng đi tu, vì đầu bần tăng có ghẻ
          Có lẽ đâu… bần tăng lại là kẻ tu hành”

Tu tại gia như một tín đồ, rời khỏi gia đình (xuất gia) vào một tôn giáo như một tu sĩ. Các tôn giáo nói chung đều đề cao tu sĩ. Trở thành tu sĩ được coi như một lý tưởng, thiêng liêng, khả kính; thậm chí có tôn giáo còn tự cho mình là đẳng cấp cao quý nhất, nằm trên 4 - 5 ngàn đẳng cấp ở phía dưới. Các tôn giáo nói chung cũng có những nội quy, luật lệ nội bộ, ít lắm cũng 5 - 10 luật lệ cho đến vài trăm luật lệ.

Thực sự các tôn giáo - ở đây chúng ta muốn đề cập đến những  tôn giáo có số lượng tín đồ lớn nhất trên thế giới như: Công giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, v.v… - Qua chiều dài của lịch sử nhân loại, đã đóng góp được gì cho các vấn đề phúc lợi xã hội? Mặc dù tôn giáo nào cũng hứa hẹn những điều tốt đẹp ở tất cả các mặt!

Hẳn người ta còn nhớ từ năm 1095 đến 1291 đã có những cuộc chiến tranh giữa những người Công giáo và Hồi giáo. Người Công giáo đã mở những cuộc hành quân lớn, gọi là Thập Tự Chinh  mà không có tài liệu lịch sử nào ghi rõ về số lượng các cuộc hành quân kéo dài trong mấy thế kỷ này. Và còn nữa, việc nổi dậy của một vị vua người Pháp chống lại Giáo Hoàng khi bị đe dọa dứt phép thông công. Ngày hôm nay, chúng ta liên tục được nghe các thông tin về việc tranh chấp các giáo phái ở tại các Quốc gia như Irắc, Pakistan, Thái Lan, Miến Điện… Không có thống kê nào cho biết số người thiệt mạng trong các cuộc tranh chấp tôn giáo trên thế giới từ trước tới nay! Những cuộc xung đột này không những không mang lại cho con người và xã hội sự bình yên và phát triển mà lại còn là những tai họa thảm khốc, làm cho bao chiến binh phải đổ máu, cha mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Nhà cửa bị phá hủy, đổ nát. Gây thiệt hại quá to lớn về người và tài sản; gây nên những nỗi đau đớn về tinh thần và mất mát về vật chất.

Chúng ta thử hình dung một xã hội mà mọi người đều tu, đều trở thành các tu sĩ của các cơ sở tôn giáo thì sẽ thành một xã hội như thế nào?

Thật vậy, có lẽ tất cả các tôn giáo đều cho đây là một tập thể lý tưởng. Thực tế có lý tưởng như vậy hay không? Trước nhất, không nói ai cũng biết, tất cả các hoạt động của xã hội đều từ từ suy thoái… Không có người sản xuất, tất nhiên không có thực phẩm, không có người buôn bán, mất đi một kênh phân phối đến tay người tiêu dùng. Các phương tiện giao thông vận tải đều tê liệt. Chúng ta hãy nhớ lại - vì ở đây tất cả mọi người đều là tu sĩ! Trường học không có người đi học, bệnh viện ngưng hoạt động. Điện, nước chỉ còn là kỉ niệm thiên đường của loài người trong quá khứ. Chúng ta lại nhắc lại - vì tất cả mọi người đều là tu sĩ. Hầu hết các Tu sĩ tôn giáo đều sống độc thân. Khi đó chỉ có người chết đi, không có người được sanh ra. Nói tóm lại, đó là cái dấu chấm hết cho xã hội loài người. Thần linh và Thượng đế quá rảnh rang, vì chẳng có xã hội loài người, nên chẳng có việc gì làm, nói đúng hơn là thất nghiệp. Phải bảo đó là một thảm họa (Cataclysm, disastrous event…)

Kính thưa quý độc giả!

Vậy thì theo ý quý độc giả tu là cái gì? Rất mong được quí độc giả đóng góp ý kiến trong các phần bình luận comments.

Trân trọng kính chào quí độc giả!




Gi thuyết là: chúng ta tìm được lý thuyết thng nht cho bn lc tương tác; chúng ta gii quyết được vn đ k thut đ đt được vn tc ánh sáng; chúng ta tìm được nhiu hành tinh có đi sng tương t như trái đt trong vũ tr…. thì thc s con người vn cô đơn. Tht vy, gii hn vt lý, sinh lý, tâm lý ca cơ th con người vn phi tuân theo khái nim Entropy. Nói theo ngôn t tôn giáo, gi là sanh, tr, hoi, dit; đó là mt tiến trình không th đo ngược. Các sinh vt đu phi chết. Chúng  ta là mt sinh vt, vy chúng ta phi chết! Đó là mt Tam Đon Lun kinh đin ca b môn lun lý hình thc mà ai cũng biết.

Khi đng trước nhng hin tượng to ln ca thế gii t nhiên so với sức lực quá nhỏ bé của con người, con người hoàn toàn bất lực: mưa bão, lũ, lụt, lốc xoáy…. Có lẽ con người có ba phản ứng nêu sau:


1.     Con người ở trong giai đoạn bình minh của lịch sử, với trí tuệ giới hạn, họ không biết được chủ thể và đối tượng (Bộ môn phân tâm học cho biết như vậy). Con người đã nhân cách hóa các đối tượng trong thế giới tự nhiên: núi rừng, sông nước, sấm, sét… Hà bá là thần của sông nước, thổ địa là thần của đất đai, rồi phong thần, hỏa thần, thần sấm, thần sét…. Và chính con người lại tìm cách van vái, cầu xin những vị thần mà chính họ đã tạo ra.


2.     Với trí tuệ bẩm sinh của loài  người, do yêu cầu của thực tế, kỹ thuật phải thành hình để đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc sống: Dẫn thủy nhập điền ( irrigation) để cải thiện mùa màng. Rồi từ việc chế tạo những vũ khí thô sơ là đá mài, cho đến tia laser để tạo sát thương cho đối thủ; Từ sử dụng cung tên với sức người cho đến tiêm kích  super  hornet, F35 a, b,c, F22, Osprey 22…

3.     Tuy nhiên, li có th do s ngu nhiên, tình c như các tu sĩ Veda, h tìm nơi vng v, yên tnh (gi là A lan nhã); h trm tư, suy tưởng v các chân ngôn, các bài kinh. Rt có th trong tình trng này, trng thái thin đnh đã được phát hin. Trng thái thin đnh, là mt tráng thái vô cùng kỳ l đi vi con người bình thường - chc chn đã làm cho các tu sĩ Veda kinh ngc. Phi đi đến thi kỳ các tu sĩ Upanishad, h mi tng bước ci thin k thut thin đnh. Có l thin đnh giai đon này vn còn rt thô sơ. Ti thi kỳ các tu sĩ ca trường phái Raja Yoga, Pht giáo… h mi hoàn thin đ đưa nó tr thành mt k thut tương đi hoàn chnh. C th là h kim soát và làm ch được k thut to ra trng thái thin đnh. Nếu thc s nhng tài liu Vi Diu Pháp được viết vào thi gian Sakya Muni ti thế, thì chính đó là mt vt chng (evidence) cho lun c này. Theo tiến trình ca lch s, khi k thut Vi Diệu Pháp này được truyn bá ti Tây Tng và mt s Quc gia khác (trong chương trình hun luyn chính quy ca các tu sĩ Tây Tng trong thi gian 4 năm, có b môn Vi Diu Pháp), thì chính ti x s này, vic hi nhp kiến thức đối vi các v mà người ta thường gi là pháp sư ( hay còn gi là Bon) - Mt giáo Tây Tng nói chung, thin đnh Tây Tng nói riêng đã thành hình. Đnh cao ca thin đnh Mt giáo Tây Tng được đánh du bng s ra đi ca các Mandala Tây Tng. Theo tác gi David Neel, thì vic có nhiu tu sĩ Tây Tng thành công có l là h nh vào các Mandala Tây Tng, vì nó to ra mt tiến trình cơ hc tt yếu. Vn theo tác gi nói trên, thì các tu sĩ Tây Tng có mt trình đ kiến thc rt gii hn, tư cht không thông minh, hiu biết khiêm tn. Nhưng với việc thực hành dựa trên một lý thuyết khoa học và phương pháp kỹ thuật tốt, nên họ có khả năng định tâm cao. 

Xem như vy thì người ta có th hiu được rng: t lch s phát trin ca b môn thin đnh thì b môn này không phi là mt tôn giáo, mà đúng hơn là nó b tôn giáo hóa, tín ngưỡng hóa. Nói mt cách khác, b môn thin đnh hoàn toàn b biến th, được s dng vào nhng mc đích khác, khác hn vi lch s  phát trin ban đu ca nó. Bt c ai quan tâm đến b môn này, tng ít nhiu có kho cu các b Lun thì đu phát hin ra rng: b môn này hình thành t kinh nghim thc tế, ch không phi là h qu ca vic tiên đoán bng lý thuyết. Vic này khác hn khi nó xâm nhp vào Trung Quc. Vi tác phm Đi Tha Khi Tín lun, người ta li thy hình như thin đnh được hình thành t vic xây dng lý thuyết, vi nhng tư tưởng rt căn bn như là: Vng tâm, chân  tâm, tng kinh nim Pht, in n sách v, nim tên Pht A Di Đà, b thí, tôn th Pht, Pháp, Tăng. Điu này làm cho hu hết mi người vô cùng bi ri, ai cũng t hi thin đnh thc s ca Pht giáo là cái gì?! Theo các chuyên gia - mà k c các quý đc gi đu có th biết, có rt nhiu tác phm tương t như nhng tác phm nói trên -  thì đó là nhng tài liu ngy to ca người Trung Quc, Hàn Quc, Nht Bn và k c Vit Nam na.

Qua nhng phương tin thông tin đi chúng ngày hôm nay, thì b môn thin đnh li càng ngày càng xa ri ngun gc thc s ca mình. đâu đó, được mt v thy n Đ biu din các v thế vi mt s các cô gái, và được người ta hiu là: thin đnh là th dc đ ci to sc khe. mt chương trình nào đó, li có nhng v đến thuyết ging, mà sau khi chúng ta nghe xong, hình như mi người cũng chng hiu nói cái gì.

Kính thưa quí đc gi!

Căn c vào mt s t đin ca mt s loi ngôn ng, người ta đnh nghĩa khoa hc là : Branch of knowledge based on observation experiment induction. Connaissances exactes – de scire, savoir…( H thng hiu biết da trên s quan sát thc nghim suy din. S hiu biết chính xác. Hiu biết.) Như quí v va xem xong mt s đnh nghĩa bng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng La tinh, nói chung người ta đnh nghĩa khoa hc là s hiu biết da trên vic quan sát thc nghim. Nếu căn c vào nhng đnh nghĩa này, thì b môn thin đnh rõ ràng là b môn khoa hc như tt c b môn khoa hc khác.

Đ minh ha b môn này mt cách c th hơn, chúng ta th mô t b môn thin đnh như sau: “Thin đnh là mt k thut, mt phương pháp ch đng đ xóa b tình trng nguyên trng ( Status Quo) ca các thc th, tt nhiên trong đó có con người, làm cho các thành phn ( Factor) không còn dung hp vi nhau (uncompromising), không còn tương thích vi nhau ( incompatible).

Vi li phát biu này, quí đc gi thy b môn thin đnh mang đy tính cht duy vt và bin chng. Nói mt cách khác, Thượng Đế và Thn Linh đã được khai t.

Bài viết ca trang blog này, ch là sn phm ca s tưởng tượng, không được bt c mt cơ quan có thm quyn nào xét duyt. Do đó, bài viết này tuyt đi không có giá tr xét bt c góc cnh nào.

Trang blog này tôn trng lut pháp ca nước Cng Hòa Xã Hi Ch Nghĩa Vit Nam và lut pháp Quc Tế.

Trân trng kính chào!