Wednesday, January 29, 2014



CHƯƠNG IV: TÂM SIÊU THẾ
(LOKUTTARA CITTĀNI )

TÂM SIÊU THẾ (Lokuttara Citāni): 8 Loại, gồm:

A – TÂM THIỆN SIÊU THẾ (hay còn gọi là TÂM ĐẠO SIÊU THẾ): 4 loại

1. Nhập Lưu đạo tâm          (Tu-Đà-Hoàn Thánh đạo).
2. Nhất Lai đạo tâm             (Tư-Đà-Hàm Thánh đạo).
3. Bất Lai đạo tâm               (A-Na-Hàm Thánh đạo).
4. Vô Sanh đạo tâm            (A-La-Hán Thánh đạo).

B – TÂM QUẢ SIÊU THẾ:  4 loại

1. Nhập Lưu Quả tâm         (Tu-Đà-Hoàn Thánh quả).   
2. Nhất Lai Quả tâm            (Tư-Đà-Hàm Thánh quả).
3. Bất Lai Quả tâm               (A-Na-Hàm Thánh quả).
4. Vô Sanh Quả tâm           (A-La-Hán Thánh quả).

Sự chứng ngộ Niết bàn:

Hành giả muốn chứng Niết bàn phải cố gắng tìm hiểu sự vật đúng với thực tướng. Với tâm định nhất tâm, vị ấy quan sát tự ngã và tìm thấy cái gọi là tự ngã chỉ gồm có danh sắc. Khi đã hiểu tự ngã chỉ gồm có danh và sắc, vị ấy lại tìm hiểu những nguyên nhân tạo ra tự ngã, và nhận thấy là đời sống hiện tại là do 5 nguyên nhân vô minh ở quá khứ, ái thủ, kamma (nghiệp) và đoàn thực của đời hiện tại. Vì 5 nguyên nhân này, tự ngã sinh khởi, và vì hành vi quá khứ chỉ định hiện tại, hiện tại sẽ chi phối tương lai. Suy tư như vậy, vị này vượt khỏi các nghi ngờ về quá khứ, hiện tại và tương lai (Kankhāvitaranavisuddhi - Ðoạn nghi tịnh). Rồi vị này quán mọi pháp hữu vi là vô thường, khổ vô ngã. Nhìn đến chỗ nào, vị này cũng chỉ thấy ba tính này chi phối tất cả. Vị này nhận rằng cuộc đời là một dòng sông trôi chảy mãi mãi, không có hạnh phúc nào là chân thật, vì mọi hạnh phúc đều đưa đến khổ đau, vì vô thường là đau khổ, và chỗ nào có vô thường và đau khổ, dĩ nhiên không thể có tự ngã.

Trong khi vị này chú tâm tu thiền tưởng, một ngày kia thình lình tự thân phát ra hào quang. Vị này cảm thấy hoan lạc vô biên, thân tâm an lạc nhẹ nhàng, lòng tin nhiệt thành tinh tấn. Tưởng lầm là đã chứng được thánh quả vì sự hiện hữu của hào quang, vị này tha thiết với trạng thái tâm tư ấy. Nhưng rồi vị này nhận chân được những sự cám dỗ ấy chỉ là những phiền não và cố gắng phân biệt giữa tà đạo và chánh đạo (Maggāmagganànadassana visuddhi - Ðạo phi đạo tri kiến tịnh).

Nhận định được chánh đạo, vị này quán tưởng sự sinh khởi (Udayanāna - Sanh trí) và sự diệt trừ (Vayanāna - Diệt trí) của các pháp hữu vi. Ðối với lý sinh diệt, sự diệt trừ để lại một ấn tượng sâu đậm hơn và vị này hướng tâm quán tưởng đến sự tiêu diệt các pháp (Bhanganāna - Ðoạn trí). Vị này nhận chân rằng cả tâm pháp và sắc pháp của mình đều luôn luôn chuyển biến, không một phút dừng nghỉ. Vị ấy hiểu biết rằng mọi vật chuyển biến đều đáng ghê sợ (Bhayanāna - Kinh hãi trí). Cả thế giới hiện ra như một hầm lửa, đầy nguy hiểm. Tiếp theo, vị ấy suy nghĩ đến sự đau khổ và nguy hiểm (Ādīnavanāna - Hiểm nguy trí) của thế giới hiện tại và tự cảm thấy chán ghét (Nibbidānāna) và muốn thoát ly khỏi thế giới này (Muncitukamyatānāna - Dục giải thoát trí).

Với mục đích trên, vị này lại quán tưởng đến ba pháp ấn (Patisankhà nàna - Suy tư trí) và tự cảm thấy thản nhiên đối với mọi pháp hữu vi, không tham ái, không chán ghét đời và mọi pháp ở thế gian (Upekkhā nāna - Xả trí).



Khi ấy, tiến trình tâm Javana trôi chảy theo một lộ trình như sau:

  

1
2
3
4
5
6+7
Parikamma
Upacāra
Anuloma
Gotrabhū
Magga
Phala
Chuẩn bị
Cận hành
Thuận thứ
Chuyển tánh
Ðạo
Quả

Trong trường hợp những vị hành giả có tuệ Minh Sát sâu sắc, chặp tư tưởng Parikamma (chuẩn bị, hay đề mục sơ khởi) không phát sanh, luồng Javana bắt đầu bằng chặp Cận hành (cận định, Upacāra) và Quả (Phala) sẽ phát sanh trong ba chặp liên tiếp.

Chín loại tuệ giác: Udaya, Vaya, Bhanga, Bhaya, Ādīnava, Nibbidā, Muncitukamyatā, Patisankhā và Sankhārupekkhā nāna -- đuợc gọi chung là Ðạo Tri Kiến Tịnh (Patipadā Nānadassana Visuddhi),  tức là trạng thái trong sạch của sự hiểu biết và sự trông thấy có liên quan đến Con Ðường, hay pháp hành. Khi vị này chứng ngộ Niết bàn lần đầu tiên, vị ấy được gọi là Sotāpanna ( Tu-Đà-Hoàn, hay còn gọi là Dự Lưu hoặc Nhập Lưu). Rồi vị này tiếp tục diệt trừ các phiền não khác cho đến khi chứng được quả A-la-hán.

Tuệ Minh Sát trong tâm Ðạo Siêu Thế được gọi là Nānadassana Visuddhi, Tri Kiến Tịnh, tức trạng thái trong sạch của sự hiểu biết và sự trông thấy.

- Một loài hữu tình ở cõi sắc giới hay vô sắc giới có thể do vô minh lầm tưởng đời sống ở hai cõi ấy là vĩnh viễn và hoàn toàn hạnh phúc. Do vậy lòng tham ái được sống phát sanh và do vậy phải tái sanh sau khi chết. Vị này có thể bị chi phối bởi 10 phiền não sau đây:

1. Thân Kiến               (Sakāya Ditthi)
2. Nghi                       (Vicikicchā)
3. Giới cấm thủ        (Sīlabbataparāmāsa).
4. Dục ái                    (Kāmārāga).
5. Sắc ái                     (Rūparāga).
6.  Sân                       (Patigha).
7. Vô Sắc ái               (Arūparāga).
8. Ngã mạn               (Māna).
9. Trạo cử                  (Uddhacca).
10. Vô minh              (Avijjā).

Người tu hành muốn chấm dứt các phiền não, người ấy quán về Khổ (Dukkha), Vô thường (Anicca), Vô ngã (Anata) và chứng ngộ được cõi thiền Niết bàn.

Khi diệt trừ được 3 phiền não đầu, chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên hành giả được gọi là Sotāpanna, Nhập Lưu hay Tu-Ðà-Hoàn (cũng được gọi là Tu-Đà-Hườn), người lần đầu tiên bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn. Vị ấy không còn là phàm nhân (Puthujjana) mà đã là Thánh Nhân (Ariya). Ngài đã cỡi bỏ ba  Thằng Thúc (Samyojana, dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng luân hồi), đó là: Thân Kiến (Sakkāya Ditthi, ảo kiến về tự ngã của mình), Hoài Nghi (Vicikicchā), và Giới Cấm Thủ (Sīlabbata Parāmāsa, tức là sự tin tưởng vào những nghi thức và lễ tế lầm lạc). Vì còn chưa tận diệt được tất cả những Thằng Thúc trói mình vào những kiếp sinh tồn, vị Nhập Lưu còn phải tái sinh trở lại, tối đa là bảy lần. Trong kiếp kế liền sau khi đắc Quả Ngài có thể còn nhớ, cũng có thể không hay biết gì rằng mình đã Nhập Lưu. Tuy nhiên, dầu biết hay không, Ngài vẫn giữ những đặc tánh của một vị Nhập Lưu.

Niềm tin nơi Ðức Phật, Giáo Pháp, và Giáo Hội Tăng Già luôn luôn tiềm tàng bên trong Ngài, không bao giờ còn vi phạm một giới nào trong Ngũ Giới. Ngài không bao giờ còn tái sanh vào khổ cảnh vì đã vững vàng bước vào con đường Giác Ngộ.

Từ đây hành giả, là bậc Thánh Nhân, đã nhoáng thấy Niết Bàn từ xa, càng quyết tâm gia công, tiến bộ nhanh chóng, kiện toàn tuệ giác, thành tựu Ðạo Quả Nhứt Lai (Sakadāgāmi, Tư-Ðà-Hàm) bằng cách làm giảm suy hai Thằng Thúc: Dục ái (Kāmarāga, tham ái duyên theo Dục Giới). và bất toại nguyện, hay sân hận (Patigha).

Vị Thánh Nhứt Lai (Sakadāgāmi, Tư Ðà Hàm) chỉ còn tái sanh một lần nữa trên quả địa cầu nếu không chứng đắc Ðạo Quả A La Hán ngay trong kiếp hiện tại. Nên ghi nhớ rằng bậc Thánh Nhân đã thành tựu tầng Thánh thứ nhì chỉ làm giảm suy sức trói buộc rất chặt chẽ của hai Thằng Thúc đã cột trói Ngài từ quá khứ vô tận. Ðôi khi Ngài vẫn còn phải bận rộn với những tư tưởng tham ái và sân hận, nhưng ở mức độ rất tế nhị.

Chí đến khi thành đạt tầng Thánh thứ ba, Bất Lai (Anāgāmi, A Na Hàm), trạng thái không bao giờ trở lại, hành giả mới tận diệt hai Thằng Thúc ấy. Từ đây Ngài không bao giờ còn tái sanh trở lại vào cảnh người hay những cảnh Trời Dục Giới, vì đã hoàn toàn tận diệt mọi tham ái duyên theo Dục Giới.

Sau khi tịch diệt ở đây Ngài tái sanh vào cảnh Vô Phiên Thiên (Suddhāvāsa, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết, Tịnh Cư), môi trường thích nghi với chư vị Thánh Bất Lai và chư vị A-La-Hán. Ở cảnh nầy vị Bất Lai sẽ đắc Quả Vô Sanh và tiếp tục sống cho đến lúc tuổi thọ chấm dứt.

Những thành công trước kia chưa từng đến với Ngài càng khích lệ thêm vị hành giả, vốn đã nhiệt thành. Hành giả nỗ lực thành tựu bước tiến cùng tột, và tận diệt năm Thằng Thúc còn lại là: Sắc ái (Rūparāga, luyến ái duyên theo cảnh Sắc Giới), Vô Sắc ái (Arūparāga, luyến ái duyên theo cảnh Vô Sắc Giới), Ngã Mạn (Māna), Phóng Dật, hay còn gọi là Trạo Cử (Uddhacca), và Vô Minh (Avijjā), đắc Quả Vô Sanh, hay A La Hán, tầng Thánh cuối cùng.

Nên ghi nhận rằng mười Thằng Thúc phải được tận diệt trong bốn giai đoạn.

Chặp tư tưởng Ðạo (Magga) chỉ phát sanh một lần duy nhất. Chặp tư tưởng Quả (Phala) tức khắc kế tiếp theo sau. Trong các loại tâm Siêu Thế, quả của tâm Thiện (Kusala Citta) trổ sanh liền tức khắc, do đó được gọi là Akālika là quả trổ ngay tức thời. Trong khi ấy quả của các loại tâm Tại Thế (Lokiya Citta) có thể trổ ở kiếp hiện tiền, hay trong kiếp kế liền theo kiếp hiện tiền, hay bất luận lúc nào, dài dài cho đến khi nhập Vô Dư Niết Bàn.

Khi vị này chứng được các quả vị trên thì gọi là Maggacittam hay đạo tâm. Khi vị này nhận thức được rằng mình đã chứng được các quả vị trên, thì được gọi là Phalacitta hay quả tâm.

Trong các loại tâm Tại Thế, Nghiệp (Kamma) chiếm phần quan trọng, còn trong các tâm Siêu Thế thì Trí Tuệ (Panna) là phần nổi bật nhất. Do đó, bốn tâm Thiện Siêu Thế không được xem là Nghiệp.

Những loại tâm nầy được gọi là Siêu Thế (Lokuttara). Ở đây, "loka" có nghĩa Pancupādanakkhandha, chấp thủ ngũ uẩn, tức là năm nhóm của sự luyến ái. "Uttara" là cái gì vượt qua khỏi. Vậy, "Lokuttara" là cái gì vượt ra khỏi trạng thái Chấp Thủ Ngũ Uẩn. Ðịnh nghĩa nầy chỉ áp dụng một cách chính xác cho bốn Ðạo. Các Quả được gọi là Lokuttara vì đã vượt ra khỏi thế gian Chấp Thủ Ngũ Uẩn.

Như vậy chúng ta có tất cả là 89 tâm gồm:

-          Dục giới tâm: 54
-          Sắc giới tâm: 15
-          Vô sắc giới tâm: 12
-          Siêu thế giới tâm: 8

Khi bậc thiện trí phát triển đến 5 tầng thiền khác nhau, thì Tâm Siêu thế từ 8 loại được phát triển thành 8 x 5 = 40 loại. Khi ấy chúng ta sẽ thấy là có 121 loại tâm chứ không phải là 89 loại tâm nữa.

Vì sao đang là 89 loại tâm mà lại phát triển thành 121 loại tâm?

Đó là:

1 - Đệ nhất Nhập Lưu thiền thiện tâm câu hữu (hay có thể nói là tương ưng) với tầm, sát (hay còn gọi là “tứ”), hỷ, lạc và nhất tâm.
2 - Đệ nhị Nhập Lưu thiền thiện tâm câu hữu với sát, hỷ, lạc và nhất tâm.
3 - Đệ tam Nhập Lưu thiền thiện tâm câu hữu với hỷ, lạc và nhất tâm.
4 - Đệ tứ Nhập Lưu thiền thiện tâm câu hữu với lạc và nhất tâm.
5 - Đệ ngũ Nhập Lưu thiền thiện tâm câu hữu với xả và nhất tâm.

Và cũng như vậy, Nhất Lai (Tư-Đà-Hàm), Bất Lai (A-Na-Hàm) và Vô Sanh (A-La-Hán) cũng có 5 đệ thiền thiện tâm như trên. Khi đó ta sẽ có thành: 4 x 5 = 20. Và ta có tổng cộng 20 loại tâm thiền thiện siêu thế.

Còn lại, cũng như trên ta cũng có 4 bậc quả vị (Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán) nhân với 5 đệ thiền sẽ thành 20 loại tâm Quả siêu thế.

Như vậy khi tâm Siêu thế có 8 loại mà phát triển cùng với 5 đệ  thiền thì sẽ thành 40 tâm siêu thế. 20 tâm đạo (thiện) và 20 tâm quả.

Ở tâm Siêu thế, tâm thiện chính là tâm Hành (hay còn gọi là tâm Vô sinh hay tâm Duy tác) – là những loại tâm không còn tạo nghiệp, không còn tái sinh.


Đến đây chúng ta đã tìm hiểu hết những bài các loại tâm (hay còn gọi là tâm Vương) trong Vi Diệu Pháp.

Xin kính Quý vị cùng bà con đón tết 2014 vui vẻ và hạnh phúc!

Hà nội ngày 29/ 1/ 2014 ( 29 tháng 12 năm Quý tị)


Cảm ơn bà con cùng quý vị!










0 nhận xét:

Post a Comment