Tuesday, April 22, 2014



Lời thưa của người thuyết minh.

Kính thưa quí độc giả!

Trong những bài viết trước chúng tôi đã giới thiệu đến quí độc giả một phần nào trong những bài viết của tác giả Lobsang Rampa về cách tập luyện để nhìn thấy hào quang. Để tránh sự nhàm chán và thay đổi khẩu vị, trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu đến quí độc giả chuyên gia người Mỹ - một khoa học gia đích thực, làm việc tại cơ quan Nasa - Barbara Ann Brennen -cũng rất hứng thú với  vấn đề hào quang của con người.

Trong loạt bài viết này, chúng ta tạm gác bỏ rất nhiều vấn đề, thí dụ như: lịch sử về vấn đề hào quang của con người. Tất nhiên ai cũng tự hỏi: Tập nhìn hào quang thì rất hay rồi! Nhưng hào quang thực sự có hay không? Nếu có thì nó là cái gì? Hiệu ứng Kirlan phải chăng là một dạng hào quang? Ở những đường dây điện cao thế, người ta cũng nhìn thấy những vầng hào quang? V.v. Và còn rất nhiều vấn đề khác. Ở đây chúng tôi đề nghị phương pháp tiếp cận thực tế. Đó là bạn thực hành bằng chính bản thân mình. Có lẽ đây là cách tìm hiểu và đánh giá vấn đề hào quang một cách thực tế nhất.

Qua quá trình tập luyện, cũng có vị nhìn thấy cái gì đó, cũng có vị chẳng nhìn thấy cái gì cả! Kể cả những người nhìn thấy cái gì đó; thì người ta cho là ảo giác, ảo ảnh, tự kị ám thị, mắt quáng đèn lòa…Tuy nhiên, có vị do tập luyện miệt mài, có vị có thể do bẩm sinh nên đã nhìn ra cái gì đó. Họ cảm thấy vui mừng và thích thú về khả năng này. Và càng lấy làm thích thú hơn khi ứng dụng vào thực tế vào cuộc sống đời thường. Tự thấy mình có một khả năng mà ít ai trên đời lại biết đến, chứ chưa nói là có được kỹ năng này. Nhờ vào khả năng này, người ta có thể đánh giá tình trạng sức khỏe nói chung của ai đó, mà chính bản thân họ không hề hay biết. Kỹ năng này được tập luyện mài dũa càng ngày càng trở nên bén nhạy, chính xác, sắc sảo. Hào quang màu đỏ đâu đó trên cơ thể con người, đó là tín hiệu cho biết, một bộ phận nào đó của cơ thể có cái gì đó không ổn. Ai đó có một màu hào quang tổng quát, màu xanh da trời, cho biết là người hành nghề trí thức. Kinh nghiệm thực tế của từng cá nhân còn cho chúng ta biết nhiều hơn thế nữa.

Cũng giống như những loạt bài về kỹ năng xuất hồn, những loạt bài về vấn đề này có rất nhiều cách tập. Hy vọng những bài viết này cung cấp thông tin đến những quí độc giả có nhu cầu tìm hiểu.

Lời đề nghị của người thuyết minh:

Kính thưa quí độc giả! Ngoại trừ quí độc giả là những người đã có nhiều kinh nghiệm; còn quí độc giả nào mới tiếp cận với những vấn đề liên quan đến kỹ năng của tinh thần như là: tác pháp, thiền định, xuất hồn…này chưa lâu, rất mong quí độc giả quan tâm đến một số vấn đề nêu sau: Có lẽ một số quí vị sẽ  cho rằng đây là những vấn đề quá sơ đẳng thô sơ mà tại sao lại cứ phải nhắc đi, nhắc lại. Vâng, tuy thô sơ thế này, nhưng nếu chúng ta thiếu sự quan tâm đúng mức, thì có lẽ tập luyện cả một đời người cũng không đạt được kết quả nào cả. Điều chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị là: Các tài liệu kinh sách của các tôn giáo Á Châu thì hay đề xuất một vị thế để tập luyện là: kiết già, bán già. Người ta cho rằng vị thế này là bản sao của các tổ sư uy nghi, chắc chắn, kinh huyệt thông suốt, tạo điều kiện cho các luân xa hoạt động tốt. Nói tóm lại là đủ các thứ tốt, không có phản ứng phụ! Thực tế lại không phải như vậy, điều này chắc chắn những vị bảo thủ cảm thấy khó chịu. Nhưng những tác giả như Lobsang Rampa, hay Barbara Ann BrennenMilarepa… đều đề xuất vị thế để tập luyện là nằm. Người Pháp gọi là vị thế này là vị thế của người chết. Người thuyết minh bài này cũng xin hân hạnh đề xuất như vậy.

Điều thân, thực tế là làm thế nào cho thân thể có thể bất động trong một thời gian lâu, mà không đưa tới việc đổ, ngã, tê, buốt, làm hư hỏng thể xác hay còn gọi là cơ thể vật chất. Chỉ cần một sơ suất nhỏ là tay chân và cơ thể bị cấn vào vật cứng trong một thời gian lâu dài công phu, nó sẽ làm bể vỡ các vi ti huyết quản. Như chúng ta đều biết nếu máu huyết không lưu thông sẽ sanh ra bệnh tật.

Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề làm sao để thư giãn tâm lý:

Phật giáo nguyên thủy và Raja Yoga cùng sử dụng chung một công thức là “Tư cách chú tâm vào một vật  duy nhất”. Trường phái Phật giáo gọi là phương pháp này là Sama sama dhi, có nghĩa là chánh định, là định tâm chân chánh. Rất có thể nhiều quí vị không ngờ là chánh định lại được định nghĩa một cách đơn giản như vậy. Đơn giản một cách bất ngờ!

Có thể lại có một bất ngờ khác. Chánh định thực tế không phải đơn giản như thế! Vậy là thế nào? Có thể có nhiều người đã từng thực hành nhiều năm, đến ngày cuối cùng của cuộc đời vẫn không tìm được câu trả lời, và chỉ còn có cách là xin hẹn kiếp sau! Chúng tôi hy vọng là những điều trình bày này để được cùng quí vị chia sẻ những khó khăn của vấn đề; chứ không cho là có ý định tự đánh bóng cá nhân mình.


Có một điều khó nói là, phải chăng người Á Châu có một thói quen, hoặc với phong tục tập quán là trình bày bất cứ vấn đề gì cũng đều mang tính chất mơ hồ; khác hẳn với nền khoa học của người Âu Châu mà kiến thức con người được phát biểu thành những định luật, nguyên lý, công thức, để tránh sự ngộ nhận. Toán học là ngôn ngữ của khoa học.

Chúng ta lại quay lại tìm hiểu về câu nói “ Tư cách chú tâm vào một vật duy nhất”. Bình thường thì ai cũng nghĩ rằng muốn định tâm, thì chỉ cần lấy một cái gì đó làm đối tượng, rồi mình chú tâm mạnh mẽ liên tục vào đối tượng đó. Đối tượng này thiên hình vạn trạng, từ một chấm đen, chấm đỏ, đến ngọn lửa của cây nhang, ngọn nến, phức tạp như một đàn pháp của trường phái Mật giáo Tây Tạng. Nói tóm lại, người ta nghĩ ra đủ cách để làm thế nào cột cái tâm mình lại. Nào là lý thuyết của luồng tâm thức, nào là những tâm Javana, tốc hành tâm…. Người ta giải thích cấu tạo của tiến trình tâm một cách cơ học của thao tác thiền định…Người thì nghĩ ra cách “thấy vọng thì không theo”, tất nhiên là còn lại chân tâm….Người ta nghĩ ra đủ phương cách để làm sao định tâm. Nhưng hình như tâm con người có vẻ bướng bỉnh, chẳng có liệu pháp nào trị được cả! Nó đi theo con đường nó muốn, mình đi theo con đường mình đi.

Hình như cái khó hiểu của câu chân ngôn “Chú tâm vào một vật duy nhất” có thể được hiểu như sau: chúng ta chú tâm vào một vật cho đến khi mất đi ý thức. Về kỹ thuật, người ta gọi đây là “tâm đi tìm”. Tâm đi tìm này chỉ đạt được chất lượng khi người đi tìm mất đi ý thức (ta nhớ lại đây là giai đoạn của sơ thiền hữu sắc). Sau khi mất đi ý thức, chúng ta thấy “Tôi và đối tượng để quán tưởng là một”. Đối tượng này có thể là một điểm sáng để mình quán sát, thí dụ như một bóng đèn led của chiếc tivi chẳng hạn. Đến giai đoạn này, chúng ta thấy chính chúng ta là điểm sáng, điểm sáng và chúng ta là một. Đây là một bước mở đầu hết sức là quan trọng cho bất cứ ai có ý định tập luyện những bộ môn tương tự. Không biết có chủ quan quá không, khi người ta nghĩ rằng: khi chúng ta vỡ lẽ được vấn đề này, thậm chí là chưa đạt được thành tích này, thì đời sống của con người đã chấm dứt!

Nói một cách khác, đặc điểm cơ học của kỹ thuật này là tự động làm cho cái tâm của người tu thiền định tách ra khỏi cơ thể vật chất. Từ ngữ bình dân trong cuộc sống đời thường gọi là xuất hồn, xuất vía gì đó. Có lẽ những ai tự cho là mình thích tu chánh định, định chân chánh, thì chính bản thân họ cũng vô tình  tạo ra, hay trải qua hiện tượng xuất hồn một cách thụ động. Quí vị nào đã từng tu thiền định và từng có cảm nhận là không nhận thấy sự hiện hữu của thân xác vật lý mình đâu, nhưng quí vị vẫn hiện hữu không có cơ thể vật lý không? Quí vị tự cho là mình có tập luyện xuất hồn bao giờ đâu, mình đâu có ý định tập luyện xuất hồn, vì nghe người ta nói là các loại thần thông là tà pháp, do đó cần phải tránh xa. Nhưng nay tập chánh định, kỹ thuật thuần túy của Phật giáo nguyên thủy, mà cái hồn (tâm) lại một nơi; cái xác vật lý (sắc) lại ở một nơi, thật là một thảm họa cho tôi chưa?!

Liệu người ta có thể giải thích được hiện tượng này chăng? Lý thuyết của các bộ Luận hoàn toàn có khả năng để giải thích. Tâmsắc cần có sự tương thích khi chúng ta sống bình thường. Tâm dục giới tương thích với sắc dục giới. Nói một cách khác là hai đơn vị này ăn khớp với nhau. Nhưng khi tu thiền định, những tâm thiền trở nên mạnh mẽ gọi là thiền thiện tâm. Số tâm còn lại rất ít, không thích hợp với cơ thể vật lý của dục giới. Do đó, vì không thỏa mãn được định luật tượng ưng -  cụ thể là tâm và sắc không cùng một loại. Do đó, nó tự tách ra. Nếu quí độc giả hiểu như vậy, thì chẳng phải là một thảm họa cho mình đâu, có lẽ ngược lại là đằng khác.

                                                                                      

( Còn tiếp)

7 comments:

  1. Hảo Hảo11:24 PM

    Nam Mo A Di Da phat

    ReplyDelete
  2. Tuệ Quang8:12 AM

    Thấy chỉ là Thấy
    Nge chỉ là nge
    Thấy như thực fáp
    Khong mứng ko ghét vô thủ vo xả
    Tâm bình-pháp nhiên(như)
    Tứ thị Thực THẤY
    Đổng KIẾN quánTự Tại!(Thiền Vipassana)

    ReplyDelete
  3. Bé Cát Tường8:29 AM

    Nam mo a di da phat nam mo bon sư thich ca mo ni phat nam mo vang the am bo tat ma ha tat

    ReplyDelete
  4. Hai Nguyen8:30 AM

    Nam mo a di da phat
    Nam mo a di da phat
    Nam mo a di da phat

    ReplyDelete
  5. Thuan Thanh5:38 PM

    Nam mo a di da phat

    ReplyDelete
  6. Doan Huulong5:45 PM

    THANKS

    ReplyDelete
  7. Đây là một vấn đề rất hay,tuy nhiên bài viết không trọn vẹn nên:
    1. Hoặc là viết tiếp
    2. Hoặc là nên dỡ bỏ bài viết cho đến khi hoàn thiện.

    Thanks!

    ReplyDelete