Công Cuộc tìm kiếm Gốc Rễ Đại Thụ Phật Giáo
Bóng đêm dần dần phủ
xuống. Đêm nay đoàn Bảo tiêu phải ở lại trong rừng. Suốt ngày họ đã di chuyển
vất vả qua chặng đường dài. Tam Tiểu Thư và Tổng Quản đang gom những cành cây
khô rải rác và chất thành đống. Họ cần đốt lên ánh lửa trong không khí lạnh lẽo
của rừng đêm.
Tam Tiểu Thư:
À! Ông Tổng Quản
ơi, nói để ông biết là tôi rất thích đạo Phật. Suốt thời gian qua tôi đã học
hỏi từ ông và cuốn Tạp Thư rất nhiều thứ. Ông đã chỉ dẫn tôi phương pháp tu
tập; nhưng lòng tôi vẫn mơ mơ hồ hồ. Tôi biết đạo Phật có hai Trường Phái là
Tiểu Thừa và Đại Thừa, nhưng kiến thức của tôi yếu quá nên chẳng phân biệt được
chúng khác nhau thế nào. Có điều là trong lòng thì có cảm tình với Tiểu Thừa
hơn. Lý do đơn giản là vì tôi nghe nói Tiểu Thừa là Phật Giáo Nguyên Thủy. Tôi
đoán cái gì Nguyên Thủy thì nó trung thực hơn. Ông coi tôi nghèo nghèo vậy chứ
phong lưu lắm, toàn mua đĩa DVD Paris Bynight bản gốc không đó. Cái gì copy sao
chép nhiều lần là nó sẽ “tam sao thất bổn” thôi. Mà ông cũng biết đĩa DVD dù
sao chép bằng máy tính, nhưng người chép vẫn thêm bớt được; huống gì chuyện
viết ra bằng cách nhớ lại lời đức Phật giảng. Tôi chỉ nhận xét theo tâm chân
thật thường tình của tôi thôi, ông đừng la tôi là xúc phạm kinh sách nhé. Ông
đang chỉ tôi tu theo Trường Phái nào vậy? Ông đừng dẫn tôi đi lung tung nhé.
Làm ơn dạy tôi con đường nào mà đức Phật Sakya Muni đã tu thành công nha ông.
Vậy cho nó thực tế.
Ông Tổng Quản:
Theo nhiều nhận
xét khách quan thì tu Thiền Định của Trường Phái Tiểu Thừa Phật Giáo là lối tu
thực tế, có bài bản lớp lang, dễ thực hành nên nằm trong khả năng của nhiều
người. Hơn thế nữa, Sakya Muni cách đây 2.500 năm cũng tu tập như vậy mà thành
công … Tuy nhiên, tôi không biết cô có đủ tự tin hay không khi chọn Trường Phái
này. Cô tu được vài bữa, sau đó nghe người ta giới thiệu những Trường Phái khác
cũng được cho là của Phật Giáo nhưng nghe hoành tráng hơn, to lớn hơn … Nhiều
từ ngữ được dùng để chỉ về tính chất đặc biệt của những Pháp Tu nói trên như:
Pháp Tu Tối Thượng Thừa, Pháp Tu Thù Thắng … rồi cô đổi ý thì sao?
Tam Tiểu Thư (cười lớn):
Đúng là sanh ra tôi
thì có ba má tôi, còn hiểu tôi thì có mỗi mình ông đó. Hỏi ông chứ khi mình
nghe giới thiệu những Pháp Tu vừa đúng là của Phật Giáo, vừa hay, vừa ngắn, vừa
chứng đắc quả vị cao thì ngốc sao không theo chứ? Thực lòng mà nói thì không
phải mình tôi mà nhiều độc giả khác cũng cảm thấy rất hoang mang. Tới bất cứ
các Cơ sở Tôn giáo được gọi là Phật Giáo - đều to lớn hoành tráng, thờ phụng
rất nhiều Vị Phật và có rất nhiều pho tượng. Tôi và có lẽ đại đa số người đến
Chùa cũng chẳng biết các Vị đó là ai. Ông Tổng Quản ơi, sao đạo Phật phức tạp
thiệt đó. Nào là có quá nhiều Vị Phật, có quá nhiều Trường Phái, có quá nhiều
Kinh sách. Thật sự từ xưa tới giờ, ai cũng phải lo làm ăn sinh sống. Đâu phải
ai cũng là chuyên viên, chuyên gia, có đủ thời gian, tiền bạc cũng như kiến
thức để khảo cứu. Hồi đó tôi thường đi theo ba má tôi đến Chùa, rồi từ từ trở
thành một tín đồ lúc nào không biết. Tôi có một người bạn xuất gia, vào chùa tu
chuyên nghiệp đó ông. Khi tôi hỏi sao lại vào đó để tu, thì anh cũng không biết
trả lời ra sao. Gia đình tôi có quen một nữ Tu sĩ, trụ trì một ngôi chùa. Cô đã
tâm sự như sau: “Tôi lớn lên, thì nhận ra mình là một Tu sĩ, điều này hoàn toàn
ngoài ý muốn của tôi”. Sao mà lẫn lộn quá đi. Ông Tổng Quản làm ơn giúp tôi xem
nên chọn Tu theo Trường Phái Phật Giáo nào đi ông!
Ông Tổng Quản:
Theo thông tin
của cuốn Tạp Thư, để cho dễ hình dung, người ta đã mô tả Phật Giáo như một Cây
Đại Thụ. So sánh này có thể nói là khá chính xác, xét ở bất cứ khía cạnh nào:
Thời gian, lãnh thổ, số lượng tín đồ, trường phái, số lượng tài liệu, v.v…
Riêng về danh xưng gọi
là Phật, có tài liệu cho biết đến con số là vạn Phật.
Trường Phái: Nhiều vô số kể. Chỉ
tính riêng Phật Giáo Trung Quốc, số lượng Trường Phái có thể kể hàng trang
sách.
- Bát Nhã Học Phái.
- Câu Xá Học Phái.
- Duy Thức Tông.
- Dương Kỳ Phái.
- Địa Luận Học Phái.
- Hoa Nghiêm Tông.
- Hồng Long Phái.
- Huyễn Hóa Tông.
- Lâm Tế Tông.
- Luật Tông …
Danh sách còn rất dài!
Tam Tiểu Thư:
Thôi đủ rồi ông
ạ, ông có kể thêm thì cũng chẳng giúp gì được cho ai cả. Ông tìm cách nào để
trình bày cho dễ hiểu hơn đi ông?
Ông Tổng Quản:
Ðể có một khái
niệm tối thiểu chúng ta tạm chia ra làm 4 Trường Phái, dựa vào yếu tố địa lý,
tư tưởng và lịch sử:
Phật Giáo Kinh Bộ (Nikaya Buddhism):
Người ta
còn gọi là Phật Giáo Nguyên Khởi (Original
Buddhism) Ðây là Trường Phái
sử dụng Kinh Điển Nguyên Thủy, trước khi Kinh điển Đại thừa ra đời. Những tài
liệu này thường viết bằng hệ Pali.
Phật Giáo Bắc Phương (Northern Buddhism):
Mật tông
Tây Tạng.
Phật Giáo Ðông Phương (Eastern Buddhism):
Gồm có
Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam.
Phật Giáo Nam Phương (Southern Buddhism):
Gồm có
Tích Lan, Miến Ðiện, Lào, Thái Lan,
Cambodia.
Cách chia này có lẽ là
đơn giản, dễ hiểu nhất. Thật vậy, khi quan sát những Trường Phái kể trên, chúng
ta biết ngay là nó nằm trong Phật Giáo Ðông Phương của Trung Quốc.
Bây giờ đề cập đến các
tài liệu của các trường phái Phật Giáo. Phải nói rằng, không ai dám tự nhận rằng
mình đã đọc hết những tài liệu của Phật Giáo; vì số lượng tài liệu này quá lớn,
thật sự không biết là bao nhiêu.
Chúng ta thử liệt kê
sơ một số cuốn Kinh, một số cuốn Luận:
- Ðại Phẩm Bát Nhã.
- Tiểu Phẩm Bát Nhã.
- Diệu Pháp Liên Hoa.
- Hoa Nghiêm.
- Ðại Vô Lượng Thọ.
- Thủ Lăng Nghiêm.
- Duy Ma Cật.
- Ðại Trang Nghiêm
luận.
- V.v…
Một số bộ luận:
- Trung Quán luận.
- Bồ đề tâm ly tướng
luận.
- Ðại trí độ luận.
- Phương tiện tâm
luận.
- Thập bát Không luận.
- Ðại thừa phá hữu
luận.
- Bách luận.
- Bách tự luận.
- V.v…
Số lượng tài liệu
nhiều không kể hết.
Tam Tiểu Thư:
Ông làm tôi ngạc
nhiên quá! Ý tôi hỏi là những tài liệu này ở đâu ra mà lại có quá nhiều như
vậy?
Ông Tổng Quản:
Thắc mắc của cô
rất hợp lý. Phải nói Phật Giáo hiện nay là một cây Đại Thụ mà cành lá xum xuê
của nó đã che mất gốc rễ hoàn toàn.
Người ta có thể lý
giải như sau:
Xã hội loài người bất
cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có rất nhiều loại Tôn Giáo. Những loại Tôn Giáo đó có thể là Đa
Thần, có thể là Độc Thần. Nhưng hầu hết, họ chỉ có một tài liệu làm nền móng cho
tất cả mọi người. Các Tôn Giáo thường coi tài liệu này là thiêng liêng, mặc
khải, không thể thêm bớt hay sửa chữa. Nói một cách bình dân là không ai được phép
thêm bớt. Quan điểm này phổ biến trong hầu hết các Tôn Giáo. Phật Giáo thì lại
khác. Như tất cả mọi người đều biết, Phật Giáo là do Sakya Muni khởi xướng,
nhưng Ngài lại có cách ứng xử, suy nghĩ và làm việc riêng. Đây là phát biểu của một Khoa Học
Gia: Nếu gọi Phật Giáo là một Chủ nghĩa, thì đó là một Chủ nghĩa không có giáo
điều, phủ nhận đức tin mù quáng, giải phóng con người ra khỏi thân phận nô lệ
của Thần Thánh, khai tử Thượng Đế, Thần linh Siêu nhiên, đoạn tuyệt với thủ tục
cúng bái, vật tế thần - những điều mà khá thịnh hành trong thời kỳ Veda. Ai
cũng biết đây là một thời kỳ nặng về cúng tế.
Có lẽ nhờ vào Thiền
quán, nhờ vào hệ quả của thực nghiệm Thiền quán, Sakya Muni đã tìm được sự thật
của vạn vật chính từ kinh nghiệm thực tế, chứ không phải từ Lý thuyết. Do quan
sát hiện tượng tự nhiên, Ngài đưa ra những phát biểu nêu sau:
Sự thật về cái Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử,
Phiền Não.
Nguồn gốc của cái Khổ: Do dục vọng, do lòng
ham muốn ích kỷ, do thiếu hiểu biết, mê muội.
Diệt Khổ: Bỏ được lòng ham
muốn.
Tận diệt Khổ đau: Bát chánh đạo.
GIỚI: Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng.
ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn,
Chánh Niệm, Chánh Định.
HUỆ: Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy.
Những tư tưởng này
mang tính chất cách mạng không những đối với xã hội đương thời, mà nó vẫn còn
những giá trị cho đến tận ngày hôm nay. Tư tưởng đó có tính chất khai hóa, giải
phóng, thoát ly ra khỏi những ràng buộc phong tục tập quán của xã hội lúc bấy
giờ. Có thể vì những lý do nêu trên mà Phật Giáo đã phát triển thành một Cây
Đại Thụ. Chúng ta còn tìm thấy những tư tưởng của Sakya Muni bàng bạc trong tư
tưởng của rất nhiều các Triết Gia khác ở trong những thời đại khác và địa điểm địa lý khác nhau.
Heraclitus (500 năm trước BC): Không có gì
trường tồn.
Spinoza (1632-1677): Thực tế vừa trường
tồn, vừa tạm bợ nhất thời (Tư
tưởng này tương ứng với quan điểm của Tam Pháp Ðộ luận).
Home (1711-1776): Trạng thái tinh
thần luôn luôn biến chuyển.
Hegel (1770-1831): Toàn thể hiện
tượng là sự đang trở thành.
Bergson (1859-1941): Chủ trương thuyết
vô thường.
William James (1842-1910): Luồng Tâm Thức như
một dòng nước.
Tam Tiểu Thư:
Truyền thống Phật
giáo, đúng là một "Cây Đại Thụ". Muốn đi tìm nguồn gốc thật sự của Phật Giáo thì
thật là gian nan đáng sợ! Rõ ràng là cành lá phát triển quá xum suê to lớn, che
kín hết gốc rễ khiến người ta không còn nhận ra đâu là Phật Giáo Nguyên Thủy.
Thế nhưng ông phải làm
cách nào giúp cho tôi thấy được cái nguyên bản chứ. Ông đã ví Phật Giáo như một
cái cây, thì chắc chắn nó phải có một cái gốc. Không lẽ cái cây lại mọc trên
không? ngay cả những cái cây của thế kỷ 21 mọc ở trên giàn thì cũng phải có dung
môi, hóa chất để nuôi bộ rễ. Nói tóm lại, bất kể loại cây nào cũng phải có gốc,
có rễ.
Tôi muốn biết nguồn
gốc thực sự của Phật Giáo Nguyên Thủy là thế nào? Bắt nguồn từ đâu? Vào thời
gian nào? Do ai nghĩ ra? Tư tưởng của nó là gì? ...
Ông Tổng Quản:
Không phải một
mình Tam Tiểu Thư, mà có lẽ quý độc giả cũng có những thắc mắc tương tự. Thật
vậy khi đến một Cơ sở Tôn Giáo nào đó mà được cho biết đây là Cơ Sở của Tịnh Độ,
đây là Cơ Sở của Thiền … nhưng sự thật người ta cũng chẳng hiểu Trường Phái này
thực sự bắt nguồn ở đâu. Ai cũng làm những thủ tục lễ bái. Nói một cách cụ thể
là mình thấy người ta làm sao thì mình làm vậy. Nói về chuyện lễ bái, thì cuốn
Tạp Thư lại cho biết thời gian Sakya Muni tại thế, việc lễ bái không hiện hữu
trong Trường Phái của Ngài.
Ðể giải thích vấn đề
này, người ta phải quay ngược lại thời gian, tìm về địa điểm mà Sakya Muni đã
xuất hiện tại Ấn Ðộ.
Theo như truyền
thuyết, sau khi Sakya Muni đã nhập Niết Bàn, các Đại Đệ Tử của Ngài nhiều lần
đã có những cuộc triệu tập để xác định lại các tài liệu gọi là Kinh Điển (kết tập kinh điển). Nhưng
chúng ta cũng biết, sau khi Phật Thích Ca tịch diệt 500 năm, thì Ấn Ðộ vẫn chưa
có chữ viết và chưa có giấy. Những kinh sách (thật
ra gọi là Kinh Sách thì không đúng, vì không có sách) hoàn toàn được truyền khẩu từ người
này qua người kia; từ đời này qua đời khác. Do đó, để giữ cho những tài liệu
này hoàn toàn chính xác là điều không thể thực hiện được. Một câu chuyện bình
thường, chỉ cần 5 phút sau là đã sai lệch, nói gì đến 500 năm sau! Mà các bài
Kinh thì nào có đơn giản; nếu không muốn nói là quá phức tạp. Ta lấy thí dụ
Tăng Chi Bộ Kinh có tới 2.308 bài Kinh thì làm sao mà nhớ được! Nếu chúng ta
quy ước với nhau là: một thế hệ con người là 25 năm (chúng ta đừng quên thuở
xưa, tục Tảo Hôn gần như phổ biến khắp nơi) nên phải tính là trên 40 thế hệ. Ai có
thể đoan chắc, cha mẹ truyền cho con hay cho ai đó qua quá nhiều thế hệ như
vậy mà không bị sai lệch? Trước thực trạng này, chúng ta thấy các tài liệu của
Phật Giáo được trình bày có tính huyền thoại thì đúng hơn là có tính lịch sử.
Theo các tài liệu ghi
lại, người ta kết tập kinh sách rất nhiều lần:
Kết tập lần 1 và 2 ở Ấn Ðộ: Luật Tạng, Kinh Tạng.
Kết tập lần thứ 3 cũng
tại Ấn Ðộ: Vi Diệu Pháp.
Kết tập lần thứ 4 tại Tích Lan: 500 năm sau khi Phật
Nhập Niết Bàn. Lần đầu tiên người ta ghi chép trên giấy, sự thật là trên lá bối
đa khô.
Kết tập kinh điển tại Miến Ðiện lần thứ 5, lần thứ 6, 1870-1954.
Sau đây là bản liệt kê
các tài liệu cơ bản của Phật Giáo Nguyên Thủy, bản liệt kê này mang tính chất
minh họa, sơ lược, để quý độc giả đễ tìm hiểu khi có nhu cầu. Những tài liệu
này có thể chia ra làm 3 lọai căn bản: LUẬT / KINH TẠNG / LUẬN.
A. LUẬT: Chia ra làm 5 bộ.
B. KINH:
Kinh theo hệ Pali gọi
là Nikaya, theo hệ Sanskrit gọi là Agamas. Tài liệu theo hệ Sanskrit này hầu
hết đã thất lạc, mặt khác không có nguồn gốc rõ ràng.
1. Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) gồm 34 bài Kinh.
2. Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) gồm 152 bài Kinh: Ðây là tài liệu quan
trọng nhất. Nếu Tam Tiểu Thư cũng như quý độc giả có ý định tìm hiểu về Phật
Giáo từ lý thuyết đến thực hành; thì tài liệu Trung Bộ Kinh này có thể đáp ứng
được hầu hết những điều quý vị muốn tìm hiểu. Có lẽ đây chính là tài liệu đại
diện cho Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong tài liệu này quý vị có thể tìm thấy:
Phép Hành Thiền Quán
Niệm.
Chánh Kiến.
Cách Tịnh Tâm.
Tứ Diệu Đế.
Không tính.
Quán Niệm Hơi Thở …
Có lẽ căn cứ vào tài
liệu này, mà các tài liệu Vi Diệu Pháp đã đúc kết những tư tưởng cơ bản.
3. Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta) gồm 2.889 bài Kinh.
4. Tăng Chi: gồm 2.308 bài kinh.
5. Tiểu Bộ: 15 bộ sách nhỏ.
C. VI DIỆU PHÁP
Tam Tiểu Thư:
Nhờ phần trình
bày của ông, tôi có được cái nhìn sơ lược và tổng quát của truyền thống Phật
Giáo. Có lẽ hệ Pali là gần với tư tưởng của Sakya Muni nhất, nhưng điều này chỉ
là một hy vọng mỏng manh. Chắc chắn không thể nói là những tài liệu này hoàn
toàn chính xác được.
Ông Tổng Quản:
Cuốn Tạp Thư có
đưa ra một nhận xét như thế này “Những tài liệu của Phật Giáo ghi lại bằng chữ
viết được cho là 500 năm sau ngày Sakya Muni nhập diệt. Thời gian này đủ để cho
biết bao nhiêu đổi thay về mọi phương diện của con người tại bất cứ xứ sở nào:
Chính trị, Xã hội, Văn hóa …” Phải khẳng định rằng, Tam Tạng Kinh Điển bắt
buộc phải biến đổi một cách tất nhiên, tùy thuộc vào các yếu tố khách quan.
Người ta cho là ngay trong những giai đoạn kết tập đầu tiên, nội bộ Phật Giáo
Nguyên Thủy đã có sự phân hóa. Lý do là các Tu sĩ không đồng ý được với nhau vì
mười Giới Luật, người muốn giữ, người muốn bỏ.
Ðiều đáng kinh ngạc
nhất và tưởng chừng như phi lý, là mặc dù 500 năm mới được ghi chép lại, nhưng
các tư tưởng của những tài liệu thuộc hệ Pali lại có tính chất nhất quán. Đây
đúng là một phép lạ, phép lạ của Phật Giáo, một kỷ lục chưa từng có trong lịch
sử của nhân loại.
Xét về mặt Khoa Học và
Thẩm Mỹ, những tài liệu này cho thấy đây là tư tưởng của một bộ óc duy nhất nào
đó. Thời gian đã trên 2.000 năm, những người kết tập lúc bấy giờ dù có muốn
ngụy tạo, thì e ngại là cũng chưa có đủ kiến thức, kỹ thuật, tư tưởng để ngụy
tạo. Tài liệu này chứng tỏ có một tư tưởng duy nhất làm nền móng để xây dựng lên
thượng tầng kiến trúc.
Tam Tiểu Thư:
Theo như ông nói,
căn cứ vào cuốn Tạp Thư, nếu chúng ta dựa vào hệ Pali để tìm hiểu, thì có lẽ
gần với lời Phật nói nhất. Tài liệu Trung Bộ Kinh rất thiết thực cho một người
Tu bình thường tạo dựng nền móng vững chắc về lý thuyết cũng như thực hành. Quý
vị nào đó muốn chuyên sâu hơn thì Vi Diệu Pháp đáp ứng được yêu cầu này. Tôi
thấy dường như ngài Thích Minh Châu, và có lẽ ngài cả ngài hThích Thiện Châu cũng có ý kiến
tương tự lúc sinh thời thì phải. Ngài Thích Thiện Châu còn đóng góp cho đời tài
liệu "Tam Pháp Ðộ Luận".
Thật ra, tôi vẫn chưa
hết thắc mắc. Khi đến thăm viếng một số cơ sở Tôn giáo Phật Giáo, thấy người ta
thờ rất nhiều Vị nhưng thật sự tôi không biết đó là những ai. Các Vị này có
hình tướng khác nhau. Vị thì có râu, Vị thì có hai tay, Vị thì có nhiều tay,
thậm chí có Vị trông hình tướng rất hung dữ … Như vậy, có lẽ có rất nhiều Vị
Phật. Tôi có hỏi, thì được cho biết tên của rất nhiều Vị Phật nhưng tôi không
nhớ hết.
Ông Tổng Quản:
Ðể trả lời cho
vấn đề này, trước nhất chúng ta nên giới hạn việc tìm hiểu và khảo cứu trong
các tài liệu của hệ Pali, vì hệ này còn tồn tại không bị thất lạc. Cũng nên
nhắc lại hệ Sanskrit, đã thất lạc, không ai xác định được nguồn gốc là ở đâu,
do ai trước tác. Có người cho là những tài liệu của hệ Sanskrit (tài liệu của Đại Thừa) đã được viết từ khi có những buổi kết
tập do sự phân hóa nội bộ Phật Giáo. Những tài liệu này đã có từ thuở đó tuy
còn hơi thô sơ rời rạc. Có người lại cho là thật sự những tài liệu này được
viết bằng Hán tự và có lẽ được viết ra bởi người Trung Quốc. Tóm lại là nó có
nguồn gốc không rõ ràng. Ðiểm đáng chú ý nhất, khác với Truyền Thống Phật Giáo
Nguyên Thủy có tư tưởng nhất quán, thì những tài liệu nói trên, tư tưởng không
nhất quán, dường như do nhiều người viết ra ở nhiều địa điểm, nhiều thời đại
khác nhau … Rất nhiều tài liệu chính quy là của Trung Quốc, nhưng cũng có những
tài liệu vẫn còn bàn cãi về tác giả như: Bát Nhã (có người cho đó là tác phẩm của
Huyền Trang). Mặt khác, chúng ta có thể loại trừ ra được rất nhiều thông
tin mà có lẽ nó đi quá xa so với thời Ðức Phật còn tại thế.
Căn cứ vào tài liệu
của hệ Pali thì Sakya Muni - người Việt Nam gọi là Đức Phật – có những đặc
điểm cần nhấn mạnh như sau:
Sakya Muni là Phật,
chỉ có một không có hai. Không thể có một Sakya Muni thứ hai, trong lúc Sakya
Muni còn tại thế.
Vị trí của Sakya Muni
là độc nhất vô nhị.
Cho đến kiếp hiện tại
này, chỉ có một Ðức Phật mà thôi.
“Giữa thế giới Nhân
Thiên. Không có ai bằng Ta”. (Trung Bộ kinh)
THIÊN THƯỢNG, ĐỊA HẠ, DUY NGÃ ĐỘC TÔN
Ðây không phải là một
lời phát biểu mang tính chất kiêu căng tự phụ như người ta có thể ngộ nhận. Câu này muốn nói: Chỉ có một vị Phật, chỉ có một Con Đường, chỉ có một Chánh Pháp, nước
biển chỉ có một vị mặn, Phật Giáo chỉ có một vị duy nhất là
Giải Thoát.
Qua phần trình bày
trên, chúng ta phải khẳng định rằng: Chỉ có một Sakya Muni, chỉ có một vị Phật,
chỉ có một Đấng Giác Ngộ, chỉ có một Chánh Pháp, chỉ có một Chân Lý Bất Tử: Vô
thường, Vô ngã, Khổ não, chỉ có một công thức bất tử: Giới, Định, Huệ, chỉ có
một con đường bất tử: Bát Chánh Đạo.
Tam Tiểu Thư:
Tôi hiểu rồi!
Trăng
ngày rằm tỏa ánh sáng trong veo trên núi rừng hoang sơ cô tịch. Ông Tổng Quản
và Tam Tiểu Thư ngồi yên lặng bên đống lửa ấm áp. Dựa vào một gốc Cây Đại Thụ,
Tam Tiểu Thư hít thở sâu vài hơi và nhẹ nhàng nhắm mắt lại. Lời nói của Tổng
Quản vang lên trong đầu:
“Truyền Thống Phật
Giáo mà mất đi Thiền Định, đồng nghĩa với mất đi Linh Hồn, mất đi Sức Sống”.
Đêm nay, đề mục tu tập với hình ảnh Đức Phật ngồi Thiền định bỗng nhiên trở nên
thiêng liêng trong lòng cô.
(còn tiếp) ...
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
ReplyDeleteRat hay
ReplyDeleteKiến thức của Admin thật hữu ích, cám ơn bạn đã share.
ReplyDeletePage hữu ích : Thiền cho người bận rộn