Wednesday, February 26, 2014
Wednesday, February 26, 2014 by UnknownNo comments
Tịnh Độ Tông còn gọi là
Tịnh Thổ Tông hay Liên Tông do cao tăng Huệ Viễn ( (zh. 慧遠) người Trung Quốc sáng
lập. Sư Huệ Viễn là người đời nhà Tấn, sinh năm 334, mất năm 416. Ông là người
họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền, ở Nhạn Môn, thuộc tỉnh Sơn Tây Trung Quốc.
Trong quá trình tu tập,
ông đã mấy lần thấy một vị Phật Di Đà thị hiện. với hào quang phản chiếu khắp
hư không. Khắp trong những ánh viên quang ấy hóa hiện vô số những vị Phật, mỗi
vị Phật đều có Ngài là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng hai bên.
Sư Huệ Viễn cho rằng sau
này là thời Mạt Pháp, chúng sinh khó lòng tự lực tu hành; tu niệm Phật và nhờ
tha lực của Phật A Di Đà là một phương pháp “dễ dãi” nhất để tiến tới giải
thoát.
Tịnh độ tông có ba bộ
kinh chính là:
Kinh A Di Đà
Kinh Vô lượng thọ và
Kinh Quán Vô lượng thọ
Mục đích của Tịnh Độ
Tông là tin tưởng và nguyện sinh về Tây phương cực Lạc của vị Phật A Di Đà làm
giáo chủ. Phép tu cao nhất của Tịnh độ là tự coi thể tính của mình là A Di Đà.
Và nếu quán được linh ảnh của D Đà là bằng chứng chắc chắn nhất sẽ được sinh về
cõi Tịnh thổ cực lạc của Ngài.
Năm 402, Huệ Viễn thành
lập Bạch Liên Xã, tụ tập tăng sĩ cùng cư sĩ đứng trước tượng Phật A Di Đà phát
nguyện sinh về Tây Phương Cực lạc. Bạch Liên Xã quy tụ hơn ba ngàn người, trong
đó có 123 vị được tôn là Hiền nhân. Trong 123 vị Hiền nhân này, lại có 18 bậc
thượng thủ gọi là Đông Lâm Thập Bát Đại Hiền,
gồm các Sư như sau:
1. Huệ Viễn Đại Sư.
2. Huệ Vĩnh Pháp Sư.
3. Huệ Trì Pháp Sư.
4. Đạo Sinh Pháp Sư.
5. Phật-đà-da-xá
(sa. buddhayaśas) Tôn Giả.
6. Phật-đà-da-xá (sa. buddhabhadra)
Tôn Giả.
7. Huệ Duệ Pháp Sư.
8. Đàm Thuận Pháp Sư.
9. Đạo Kính Pháp Sư.
10. Đàm Hằng Pháp Sư.
11. Đạo Bính Pháp Sư.
12. Đàm Tiên Pháp Sư.
13. Danh sĩ Lưu Di
Dân.
14. Danh sĩ Lôi Thứ
Tôn.
15. Danh sĩ Tôn Bính.
16. Danh sĩ Vương Dã.
17. Danh sĩ Vương
Thuyên.
18. Danh sĩ Châu Tục
Chi.
Chính vì vậy Sư Huệ Viễn
được coi là sơ tổ của tông phái Tịnh Độ với phương pháp tu hành là niệm tên
Phật Di Đà. Mục đích của việc niệm A Di Đà là chế ngự tâm và hành giả có thể
thấy được A Di Đà cùng hai vị Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí và biết trước
giờ chết của mình.
Ngoài việc tập trung vào
phương pháp tu hành và xiển dương môn phái của mình, Sư Huệ Viễn cũng lưu tâm
vào những pháp môn khác.
Dựa trên kinh điển, ông
đã suy luận và viết ra một số tác phẩm. Trong số sách của ông viết, có
những quyển sau:
1. Biện Tâm Thức
luận (zh. 辯心識論)
2. Du Lô Sơn
thi (zh. 遊盧山詩)
3. Du Sơn ký (zh. 遊山記)
4. Đại Thừa Đại Nghĩa
Chương (zh. 大乘大義章) (3 quyển).
5. Đại Trí Độ Luận Yếu
Lược (zh. 大智度論要略) (20 quyển).
6. Lô Sơn Lược
ký (zh. 盧山略記)
7. Minh Báo Ứng
luận (zh. 明報應論)
8. Pháp Tính
luận. (zh. 法性論)
9. Phật Ảnh tán (zh.
佛影讚)
10. Sa Môn Bất Kính Vương
Giả Luận (zh. 沙門不敬王者論).
11. Sa Môn Đản Phục
luận (zh. 沙門袒服論)
12. Thích Tam Báo
luận (zh. 釋三報論)
Ngoài ra, Ông còn viết
nhiều văn thư biện luận về Phật pháp với Sư Cưu Ma La Thập, cùng các ông Lưu Di
Dân, Đới An và một số vị khác.
Cuối cuộc đời của ông,
vào ngày 30 tháng 7, năm nghĩa hy thứ 12, sau khi ngồi tịnh, mở mắt thấy Phật
Di Đà thị hiện khắp hư không, với hai bên tả hữu là Quán Thế Âm cùng Đại Thế
Chí. Phía sau Di Đà còn có các bạn của ông đã tịch trước ông như các ông: Phật Đà
Da Sá, Lưu Di Dân, Huệ Vĩnh, Huệ Trì…Ngài Di Đà nói với ông rằng : “Ta dùng sức
bản nguyện tới đây an ủi ông, sau bảy ngày ông sẽ được sinh về Tịnh độ.”
Ngày hôm sau, ông bắt
đầu bị cảm. Ông gọi hai đệ tử của mình là Pháp Tịnh và Huệ Bảo đến thuật lại
chuyện ba lần nhìn thấy Thánh tướng Di Đà cùng các kỳ tích trong quá trình tu
tập của cuộc đời. Rồi bảo rằng nếu đã có
điềm như vậy, chắc là đã đến thời kỳ ra đi. Ông dặn dò đệ tử làm những việc đại
sự sau khi ông tịch và làm các quy chế răn dạy cho đại chúng cùng nhau sách
tấn tu tập sau này.
Trong thời gian ông
bệnh, chư Tăng khuyên ông dùng thuốc rượu, nhưng ông từ chối. Tới ngày cuối
cùng của cuộc đời, vì ông mệt, chư Tăng bảo ông dùng nước cơm gạo, ông
cũng nói quá ngọ nên không ăn. Các vị tăng lại bảo ông dùng mật để lấy sức, sư
bảo mọi người tra luật xem có được ăn mật không. Khi mọi người chưa tra xong,
ông không làm chủ được và đã viên tịch. Đó là ngày 6 tháng 8 năm Bính
Thìn, niên hiệu Nghĩa Hy thứ 12, thọ 82 tuổi.
Sau này Đàm Loan (zh. 曇鸞 – sinh năm 476, mất năm
542) là người đã xiển dương và tích cực phát triển tông Tịnh độ.
Ngày nay Tịnh Độ tông là
tông phái phổ biến nhất tại Trung Quốc, Việt Nam ,
Nhật Bản và Đài Loan.
Nhật Bản thời kỳ đó cũng
là một đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa và tôn giáo Trung Quốc: Viên Nhân (zh. 圓仁, ja. ennin, 793-864), là một người đã thấm sâu tư tưởng và
văn hóa của đạo Phật Trung Quốc trong thời kỳ ông học ớ đất nước này. Ông đã
tích cực truyền bá Tịnh độ tông cùng thiên thai tông và mật tông vào Nhật
Bản.
Thừa kế và phát huy
những tư tưởng văn hóa này và nổi danh trong những thời kỳ đầu hoằng dương Tịnh
độ là Không Dã Thượng Nhân (空也上人, ja. kūya shōnin, 903-972), và Nguyên Tín (源信, ja. genshin, 942-1017). Không Dã Thượng Nhân với niềm tin
tín ngưỡng A Di Đà đã nhảy múa ca hát về A Di Đà giữa chợ theo nhịp gõ
chiếc bình bát cầm trên tay. Chính vì điều này, người ta gọi ông là Thị Thánh (市聖), tức là thánh ở chợ. Trong thời gian này, việc niệm Phật là một
yếu tố chính của những tông phái tu hành tại Nhật, đặc biệt là Chân ngôn
tông và Thiên thai tông.
Nhưng người có công lớn
nhất trong việc đưa Tịnh độ trở thành một tông phái chính là Pháp Nhiên (zh. 法燃, ja. hōnen, 1133-1212). Thế kỷ thứ 12, Pháp Nhiên chính
thức thành lập tông phái Tịnh độ. Ông đã truyền bá, thuyết phục và thu hút được
đông đảo quần chúng; gây dựng tông này trong phạm vi sâu rộng và trở
thành một trường phái vô cùng lớn mạnh. Phong trào tu Tịnh độ trở thành một
trào lưu rộng lớn và là một phần chính trong việc tu hành ở Nhật. Ông quá đề
cao giáo lý của mình nên bị các đối thủ tranh chấp, dèm pha và cuối cùng bị đày
ra vùng hoang vu cô tịch năm ông 74 tuổi.
Sau này một cao tăng
thuộc tông phái Thiên thai là Lương Nhẫn (zh. 良忍, ja. ryōnin), đã nổi danh trong việc tín ngưỡng và tán tụng
đức A-di-đà trong những bài hát. Ông ra sức truyền bá pháp môn Tịnh độ với
phương pháp niệm Phật. Ông cho rằng niệm Phật sẽ được dung thông: "Dung
thông niệm Phật" (zh. 融通念佛). Có nghĩa là nếu một
người nào đó niệm Phật thì tất cả những người khác xung quanh cũng được hưởng
lây công đức. Thậm chí không chỉ những người xung quanh mà tất cả mọi chúng
sinh đều được hưởng phần công đức này. Và ngược lại, ai cũng có phần công
đức của mình trong việc trì danh, niệm Phật. Những giáo lý của ông về vấn
để này đã thuyết phục và thu hút được nhiều người trong vương triều. Và
sau này, khi ông đã tịch, các đệ tử của ông đã kế thừa những lý luận và giáo
điều của ông và phát triển bằng cách tích cực truyền bá. Những giáo lý ấy vẫn
được áp dụng cho tới ngày hôm nay.
Một Cao tăng trên
núi Tỉ
Duệ (zh. 比叡) - trung tâm của các trường phái tín
ngưỡng A-Di Đà là Nguyên Tín (zh. 源信, ja. genshin) – với niềm tin chắc rằng
cõi Cực lạc của A Di Đà là một cõi thoát ly sự sinh tử. Ông biết được tâm lý sợ
khổ đau và thích được an nhàn của người dân, nên đã cho ra đời cuốn Vãng sinh
yếu tập (zh. 往生要集), nói về niềm tin A Di
Đà và truyền bá phương pháp tu tập. Cuốn sách này của ông viết về những
cảnh địa ngục khổ đau và lợi ích của việc niệm Phật. Tác phẩm này cùng tư
tưởng của ông đã tác động và ảnh hưởng sâu rộng đến truyền thống tín ngưỡng A
Di Đà tại Nhật Bản. Ngoài việc viết sách truyền bá giáo lý của mình, ông còn
cho tạc tượng và sử dụng những bức tranh ảnh để truyền bá tông phong của mình
cho những người ít học.
Tông phái Tịnh độ chính
thức được hình thành với thời kỳ của Pháp Nhiên. Pháp Nhiên đã làm một cuộc
cách mạng trong việc truyền bá và phát triển Tịnh độ tông với trào lưu rộng
lớn. Ông cho rằng con người không thể tự lực tu hành vào thời mạt pháp. Chỉ có
tha lực của ngài A Di Đà Phật mới giúp cho con người dễ dàng tu tập. Và sinh về
cảnh giới của Ngài là được an lạc trong cõi cực lạc và được giải thoát. Và Tịnh
độ tông bây giờ vẫn được lưu truyền và được áp dụng, thực hành rộng rãi ở các
nước Á Đông, trong đó nổi bật vẫn là những nước có nguồn gốc hình thành và phát
triên môn phái này, đó là Trung Quốc, Nhật Bản. Ngoài ra còn có những người tu
hành ở các nước khác như Đài Loan, Việt Nam và một số nước Á Châu khác.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 nhận xét:
Post a Comment