Sunday, February 16, 2014
Sunday, February 16, 2014 by UnknownNo comments
Sao Mai says:
Như lần trước chị đã hứa với em cùng
với quí độc giả, em hy vọng lần này chị sẽ trình bày một số chủ thuyết về vấn
đề : cái ngã, cái tôi, linh hồn, tiểu linh quang…. Em hiểu không biết có đúng
hay không, đây chỉ là vấn đề danh xưng, tùy thuộc ở trường phái tôn giáo, chủ
thuyết.
HHN says:
Xin chào Sao Mai cùng toàn thể quý
độc giả!
Em xin phép tiếp tục trình bày về
vấn đề này. Tùy theo cách của từng trường phái công nhận sự hiện hữu của một cái tôi vĩnh hằng. Dạng trường phái này nhiều vô
số kể, họ cho rằng con người là một điểm sáng nhỏ, còn Thượng Đế là một điểm sáng lớn…Em
xin phép giới thiệu cùng quí độc giả về một tư liệu nói về cái ngã - từ điển wiipedia. Có thể rất nhiều quí độc giả đã biết những thông tin này thông qua wikipedia; tuy nhiên cũng có thể có những vị chưa có cơ hội đọc tài
liệu này. Theo quan điểm chủ quan của em, quí độc giả có thể tham khảo tài liệu
về cái ngã trong wikipedia. Đặc điểm của bài viết này là súc tích, ngắn gọn, rõ
ràng… giúp cho người đọc không phải quá vất vả để tham khảo quá nhiều tài liệu.
Em xin nhắc lại - quan điểm vô ngã là một quan điểm của trường phái Phật giáo.
Sau đây, em xin phép trình bày sơ
lược về lịch sử và tiến trình của chủ thuyết vô ngã.
Người ta cho rằng vào thời Sakya
Muni (Thích Ca Mâu Ni) tại thế đã có nhiều loại lý thuyết về tâm lý học. Có thể có hai
trường phái sau đây:
-
Thuyết
duy tưởng (idéalisme)
-
Thuyết
duy vật (matérialisme)
Với thuyết duy tưởng, thì người ta có một cái ngã (àtman), cái ngã này thường
hằng, làm bản thể cho cái tôi. Tư tưởng này chúng ta có thể tìm thấy trong tác
giả của trường phái phân tâm học Sigmund Freud. Cái ID là những phần vô tổ chức
của sự cấu tạo cái tôi. Nó là nền móng của con người, là cấu tạo duy nhất
của con người, được hiện hữu từ lúc sanh ra (unorganized part of the
personality structure – the only component of personality).
Với thuyết duy vật, thì lại cho rằng
mọi sự vận động của tinh thần đều bắt nguồn từ vật chất. Một tác giả mà ai cũng
biết trong thời cận đại cho là, mũi tiết ra nước mũi, vật chất tiết ra tinh thần.
Người ta lý luận rằng nếu không có vật chất sẽ không có sự vận động tinh thần nào
cả.
Đứng trước hai quan điểm nói trên,
dường như Sakya Muni đã chọn con đường trung đạo, ngài phê phán cả hai chủ
thuyết nói trên. Với câu hỏi khác nhau giữa vật chất và tinh thần, hình như
Sakya Muni không có câu trả lời. Về tương quan giữa sắc và danh, thì ngài cho
là chúng không giống cũng không khác nhau. Ngài cho rằng đó là những thực tại. Với
quan điểm ngày hôm nay, thì dường như câu trả lời trên mang tính cách hàng hai.
Tài liệu trình bày về vấn đề vô ngã của trường phái Phật giáo,
có thể đúc kết vào một câu chuyện ngắn sau đây: “ Khi những bộ phận tách rời của một
chiếc xe được lắp ráp vào đầy đủ thành một chiếc xe, xe lúc này được sử dụng để
định danh sự hiện hữu của nó, người ta gọi nó là cái xe”. Theo quan điểm của
trường phái Phật giáo, con người là sự hội đủ của 5 uẩn là: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Vẫn theo quan điểm của Phật giáo thì 5 yếu tố vừa kể trên chẳng có
yếu tố nào thường hằng cả. Do đó, khi hội đủ lại thì thành ra một sinh thể (hay
chúng sinh). Có hai yếu tố để đưa đến việc kết luận là vô ngã. Yếu tố vừa được
nhắc đến là 5 thành phần nói trên, không có tính cách ổn định. Mặt khác, nếu có
việc hội đủ 5 yếu tố, thì cũng có việc là 5 yếu tố có thể tan rã.
Kính thưa quí độc giả cùng Sao Mai!
Cách trình bày nói trên vô cùng thô
thiển! Em hy vọng rằng với lối trình bày đơn giản này, sẽ làm cho nhiều người
dễ hiểu, dễ nhớ, vì em cho rằng, đây là một khái niệm khá khó hiểu của trường
phái Phật giáo:
Người ta cho là Sakya Muni là người
thầy của thuyết vô ngã.
Sao Mai says:
Em cũng từng được nghe và được xem
người ta trình bày về thuyết vô ngã. Nhưng càng xem, càng nghe, thì hình như em
càng chẳng hiểu họ nói cái gì cả. Họ trích dịch quá nhiều tài liệu, rối tinh,
rối mù lên. Chị này! Em có một câu hỏi hơi “ngớ ngẩn” một chút. Em quan ngại
rằng, những người đứng ra trình bày, chỉ là sao kinh, chép sách hay là chính họ
cũng chẳng hiểu là cái gì cả! Em còn nhớ có một câu nói bằng tiếng Pháp ở trong
nhà trường, em xin phỏng dịch ra tiếng Việt Nam “Cái gì mình sở đắc rõ ràng,
thì người ta có thể giải nghĩa, giải thích một cách rõ ràng cho người khác
hiểu”.
HHN says:
Rất có khả năng xảy ra như điều em
nói, vì việc khảo cứu về tài liệu của
trường phái Phật giáo rất là phức tạp và khó khăn. Ngoài việc không có chữ
viết, không có lịch sử, sau nhiều trăm năm sau người ta mới viết bằng tài liệu,
còn phải kể đến những sự cạnh tranh của những đối thủ gần xa của trường phái Phật giáo. Phải nói rằng
là một tai họa lớn lao hơn nữa, khi các kinh ngụy tạo ra đời… Rõ ràng, việc
khảo cứu để tìm hiểu một cái gì đó trong
trường phái Phật giáo, phải nói là một công việc không dễ chịu gì.
Kính thưa quí độc giả!
Người ta cho rằng vào thời Sakya
Muni tại thế, xã hội Ấn Độ có công nhận một cái “thức” là trung tâm của sự
sống. Một số người ủng hộ quan điểm này: thức là bất động, thức tiếp tục tồn
tại sau cái chết và là tác nhân của luân hồi. Mặc dù là kiến trúc sư của lý
thuyết vô ngã, nhưng Sakya Muni ở trong một số trường hợp lại công nhận sự hiện
hữu của một loại thức, được coi như thành phần tiêu cực của tinh thần. Có thể
tư tưởng này đã khai sinh ra luồng tâm thức, gọi là Bhavanga, luồng tâm thức
này, đóng một vai trò quan trọng, chiếm giữ một chương then chốt của tài liệu
Vi Diệu Pháp. Tài liệu này còn gọi là Thắng Pháp Tập Yếu Luận. Tác giả
Nyanatiloka đã mô tả luồng tâm thức “nó có bản tính như một tiến trình luôn
luôn trôi chảy, vô thỉ, vô chung”, biết bao nhiêu ấn tượng và kinh nghiệm được
tích lũy và vận hành ngoài chủ ý. Trong quá trình vận hành này, vào một lúc nào
đó, các hiện tượng của tiềm thức đã bước được vào ngưỡng cửa của ý thức và trở
thành ý thức trọn vẹn. Do đó, người ta còn gọi là “Dòng tiềm thức của sự sống”.
Dựa vào cơ sở này (Dòng tiềm thức của sự sống), người ta sở dĩ có thể giải
thích khả năng của trí nhớ, các hiện tượng tâm lý và nghiệp luân hồi.
Rất có thể tiến trình này là khởi
đầu khúc cho cảm hứng của sự xuất hiện của thuyết hữu ngã mà tài liệu "Độc Tử Bộ" gọi là “nhân thể” (pudgala).
Tư tưởng này được các nhà đại thừa
cảm hứng và sáng tác ra lý thuyết Như Lai Tạng. Đó là câu trả lời cho những tôn
giáo ngoại đạo. Mặt khác, khái niệm hữu ngã còn
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc hình thành và phát triển của
thuyết Tàng thức, a lại gia thức trong trường phái Duy Thức.
Phải nói rằng sự ra đời, hay nòi
đúng hơn là sự xuất hiện của thuyết hữu ngã (pudgala), chính là chiếc phao cứu
sinh cho trường phái Phật giáo. Thật vậy, chủ thuyết hữu ngã này, không cần
phải có những lý thuyết, những kinh nghiệm siêu nhiên, những kiến thức xuất
thế… Nó có thể cảm nhận bằng trực quan, bằng thực tế…Một con người bình thường cũng
có thể trải nghiệm được kinh nghiệm của sự hiện diện của Pudgala. Trước khi đi
ngủ, tôi thấy tôi là tôi; trong khi ngủ tôi có thể nằm mơ hay không; khi tỉnh
dậy, tôi vẫn thấy tôi là tôi. Nếu một cái tôi không nhất quán, thì có lẽ xã hội
loài người không thể tồn tại được, mà cả thế giới loài vật cũng vậy. Ta hãy
tưởng tượng, một con chó lúc thức biết mình là một con chó. Việc hành xử chứng tỏ
nó là một thực thể nhất quán. Chó cũng ngủ và có thể nằm mơ hay không nằm mơ
như người. Nếu nằm mơ thấy mình là một con vật nào đó - giả thuyết là lúc tỉnh
dậy lại không biết mình là chó, mà có thái độ hành xử như một con mèo, không
trông coi nhà cửa mà đi bắt chuột. Nếu con chó có một lối hành xử như việc vừa
kể trên, thì không thể làm công việc hợp tác với con người theo chiều dài của
lịch sử để tồn tại. Nếu con chó mà không có một cái tôi nhất quán; hay ngược
lại người mà không có một cái tôi nhất quán, thì hai bên không thể cộng sinh.
Ta hãy hình dung con người tưởng mình là cọp, thì chắc chắn con chó nổi tiếng là
loài vật trung thành cũng phải bỏ chạy, tìm môi trường tồn tại trong đời sống
hoang dã.
Theo trường phái nhân thể luận, có
nghĩa là công nhận có một cái ngã: Người ta cho rằng, có một cái tôi di trú từ
kiếp này qua kiếp khác, là chủ nhân công của những loại nghiệp quả tích cực
hoặc tiêu cực. Cái ngã là người chủ tạo ra nghiệp, nó là trung tâm của cái
biết.
Người ta đưa ra một số luận cứ để
chứng minh sự tồn tại của một cái ngã thường hằng.
Nếu công nhận lý thuyết luân hồi,
thì phải có một cái ngã để kết nối những tiến trình khác nhau, trong những kiếp
sống khác nhau. Nói một cách khác, nếu không có một cái tôi thường hằng, một
cái tôi nay đây, mai đó, thì không thể có luân hồi.
Nếu không có một cái tôi thường
hằng, thì không có chỗ nào để chứa đựng trí nhớ và sự hiểu biết? Không thiếu gì
trường hợp người ta nhớ ra kiếp trước, mà đã được các tài liệu hành chính xác
minh.
Nếu không có một cái tôi thường
hằng, thì ai chịu trách nhiệm các nghiệp thiện, nghiệp ác.
Nếu không có một cái tôi, thì cũng
chẳng có người chứng đắc, người không chứng đắc….
Tài liệu TRIDHARMAKASASTRA là một tài liệu điển hình ủng hộ
chủ thuyết nhân thể.
Sao Mai says:
Đúng như chị nói, riêng trường phái
Phật giáo cũng đã có những tranh luận không có lối thoát.
Em hy vọng trong những bài viết tới,
xin chị vui lòng trình bày về những lý thuyết hiện đại cũng liên quan đến vấn
đề cái tôi.
Trân trọng kính chào toàn thể quí
độc giả!
Sao Mai
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
0 nhận xét:
Post a Comment