Sao Mai says:
Chị HHN à! Em thấy đầu đề của những
bài viết của chị, tiếng Tây, tiếng Tàu rắc rối quá, người ta cho rằng nổ quá…
Chị có thể giải thích tại sao?!
HHN says:
Nhận xét đó không phải là sai, mà có
lẽ còn chính xác là đằng khác, mình cũng nên nổ một tí cho nó thời trang! Nếu
nhìn ở một góc cạnh khác, có thể một số quí độc giả sẽ nhận thấy rằng, đây là
những đề tài mang tính chuyên ngành có lẽ là cao. Do đó, chúng ta buộc lòng sử dụng
những từ ngữ chuyên ngành, bằng những ngoại ngữ khá phổ thông, mặt khác nó còn
mang dấu ấn nguồn gốc của từ ngữ. Vâng, mặc dù một số từ ngữ nói trên bằng
tiếng Đức, nhưng phải bảo chính người Đức cũng mù tiếng Đức, vì từ ngữ này ở
chuyên ngành có một ý nghĩa khác hẳn. Rất mong được quí độc giả lượng thứ, vì
có dịch ra tiếng Việt cũng vô nghĩa.
Sao Mai says:
Em có thể thông cảm với những lời
giải thích của chị, em nghĩ quí độc giả cũng sẵn lòng lượng thứ.
Chị HHN à, gần đây em có xem trên internet
về tin tức quốc phòng thế giới…. Chính trong những trang web này lại có kèm
những tin tức bằng hình ảnh của những cô gái Việt Nam khỏa thân 100%.... Em thấy chị
có vẻ am tường về phân tâm học, em xin chị vui lòng giải thích…
HHN says:
Sao Mai à! Theo mình thì có hai giả thuyết để giải thích
hiệu ứng này.
A.
Chắc
em đọc kinh thánh còn nhớ, trong vườn địa đàng Eden có một con rắn rất đáng sợ,
nó đã xúi giục người nữ ăn trái cấm. Người nữ ăn trái cấm này, còn đưa cho cả
chồng mình ăn nữa. Từ đây, tổ tiên của loài người biết hổ thẹn về việc không
mặc quần áo của mình và tìm lá để che thân. Em ạ, cái gì cũng có ngoại lệ, lúc
này cũng có một số cô gái Việt Nam
là người mẫu, siêu sao… có lẽ không hiểu con rắn nói gì vì con rắn nói bằng ngọai ngữ. Chính vì thế nên không hiểu gì.
Do đó, ngày hôm nay vẫn tiếp tục không mặc quần áo đưa lên trang web.
B.
Theo
quan điểm sinh học. Hệ thần kinh của quí cô nương này (Neural system) khá đơn
giản. Do đó, vai trò của vỏ não (Celebral cortex) có lẽ rất khiêm tốn. Chính vì lý
do này mà bản năng bẩm sinh chiếm ưu thế. Bản năng tình dục, cụ thể là Libido
vượt ra khỏi sự kiểm soát của cái tôi (ego) và super-ego (I.D có thể hiểu là
bản năng bẩm sinh, đi kèm với sự ra đời của một con người. Super-ego mang tính
chất đạo đức – moralizing role. Ego: đóng vai trò tổ chức, thực hiện những điều
mà I.D mong muốn và super-ego đòi hỏi. Chúng ta có thể hiểu super-ego là những gì
ngược lại với những gì mà I.D mong muốn.)
Sao Mai says:
Chị HHN này, có những hiện tượng tương tự về tâm lý, không
những xảy ra cho người bình thường, mà người tu cũng không ngoại lệ. Thật vậy,
là con người thì bản năng chẳng phân biệt ai với ai. Em nghĩ đó là một sự
thật. Có lẽ vì biết điều này, các trường phái tôn giáo nói chung mới đưa ra
các nội quy, các điều luật, các điều răn, giới cấm. Thực tế là những biện pháp
để ngăn ngừa ( Mesure de Prevention), đúng hơn là ngăn chặn những bản năng vốn
có của con người - mà người ta cho rằng thấp hèn, không trong sạch, bất thiện…
là chướng ngại, rào cản trên bước đường tiến hóa.
Em thì hiểu biết khiêm tốn, giới
hạn. Chị có nghĩ là những biện pháp nói trên có thể tạo ra trạng thái phản tác
dụng, dồn nén…
Để mang tính chất khách quan cao,
nôm na gọi là “nói có sách, mách có chứng”. Em thử liệt kê một số nội quy, điều
luật, giới cấm, điều răn… của một số trường phái.
v
Giới
luật Yoga gọi là Yama:
-
Không
sát sinh
-
Không
vọng tưởng
-
Không
trộm cắp
-
Không
tà dâm
-
Không
tham
-
V.v…
Mục đích là hợp nhất với tự tại thiên.
v
Mệnh
lệnh đạo đức của Cơ Đốc giáo, có nhiều bảng khác nhau:
-
không
được giết người
-
Không
được ngoại tình
-
Không
được trộm cắp
-
Không
được làm chứng gian hại người
-
Không
được ham muốn: nhà, vợ, tôi tớ, nam, nữ… của người khác
v
Do
thái giáo:
- Có 613 điều răn dạy cho nam, nữ, thầy tu. Dường như bây
giờ còn 300 điều răn.
v
Đạo
Hồi có 10 điều răn :
-
Chỉ
tôn thờ một Thiên Chúa
-
Vinh
danh, tôn trọng cha mẹ
-
Tôn
trọng quyền người khác
-
Bố
thí cho người nghèo.
-
Cấm
giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt
-
Cấm
ngoại tình.
-
Bảo
vệ, chu cấp trẻ em mồ côi
-
Công
bằng với mọi người
-
Trong
sạch tình cảm và tinh thần
-
Khiêm
tốn
v
Đạo
giáo ( đây là một trường phái rất cổ của Trung Quốc và cả nhân loại)
v Đạo gia khí công chủ trương: Luyện
tinh thành khí, luyện khí thành thần, thần hoàn hư không ( Vô cực).
v Phật giáo
Rất mong quí độc giả tự tham khảo,
vì quá dài không thể đăng tải toàn bộ.
Em cho là tất cả mọi người có thể
đồng ý, bất cứ một tập thể nào cũng ít hay nhiều có những nội quy thành văn hay
bất thành văn. Thí dụ như: luật bất thành văn tại Anh Quốc, hay một số quốc gia
khác. Thậm chí một chung cư cao cấp ở Sài Gòn hay Hà Nội, một cao ốc cũng phải có nội quy.
Lúc chúng ta đi học thì phải đứng lên để chào thầy cô, không được nói chuyện,
không được copy,…
Tuy nhiên, khi nghiên cứu những bảng
nội quy của các tôn giáo, chúng ta thấy có nhiều điểm tương đồng.
1.
Chúng
ta thấy phần nội quy đầu tiên của Cơ Đốc giáo và Hồi giáo có vẻ giống nhau - chỉ được tôn thờ vị giáo chủ. Việc tôn tờ này là duy nhất. Nếu việc này các tín
đồ không thực hiện được, thì có một sự trừng trị - phải nói là vô cùng tàn ác.
Nhiều tài liệu đã sử dụng từ ngữ này.
Mặt khác, thế quyền và thần quyền
lẫn lộn. Ví dụ như một di tích mà còn tồn tại ở Campuchia như một kỳ quan, cũng là dấu ấn của
việc trộn lẫn thế quyền và thần quyền của các vua chúa. Thật vậy, Cơ Đốc giáo
đã thống trị bộ môn vật lý trong nhiều thế kỷ. Để thoát ra sự cai trị này, nhiều
khoa học gia đã phải đánh đổi bằng sinh mạng của mình.
2. Các điều luật nói trên dường như vi phạm một cách thô
bạo đến những bản năng bẩm sinh, di truyền, mang tính chất tự động (automatic), không thể cưỡng lại được, không thể thay đổi được (unmodifiable) của con người.
Xin chị HHN vui lòng giải thích vấn đề bản
năng. Chị HHN à, phải chăng bản năng là “Kẻ nội thù” (The enemy within). Em
nhớ đâu đó, trường phái Phật giáo có câu nói: “ Kẻ thù lớn nhất của cuộc đời là
chính mình”.
HHN says:
Theo mình
nghĩ, phát biểu của tôn tử “Tri bỉ, tri kỷ. Bách chiến, bách thắng”. Nếu coi
chính mình là một kẻ thù, thì việc muốn chiến thắng kẻ thù này cũng không
thoát ra khỏi ngoại lệ. Đó là phải biết mình, biết người. Chị đã từng đóng góp
cho những bài viết trước rồi. Những vị soạn thảo ra những nội quy, điều luật… cho
các trường phái tôn giáo, thì đã sống cách đây quá lâu, có thể 3 - 4 ngàn năm,
ít lắm cũng 1 ngàn năm. Tâm lý học chỉ mới có cách đây vài trăm năm. Từ ngữ bản
năng, lần đầu tiên được sử dụng trong tâm lý học vào năm 1870. Như vậy rõ ràng
là những Vị hoạch định ra cái gọi là những bộ luật cho tôn giáo, thì chắn chắc
không có một kiến thức gì về tâm lý học cả.
Trước khi lý thuyết của Sigmund
Freud ra đời, thì cũng có những nhà tiên phong trong bộ môn này, thí dụ như:
Jean Henri Fabre, Wilhelm Wundt, một người đại diện cho sinh học; một người đại
diện cho tâm lý học. Thật ra, bộ môn này liên quan tới rất nhiều bộ môn khác:
Sexology, Sexologist (chúng ta phải phân biệt hai bộ môn này là: tình dục học
và tính dục học. Hai bộ môn này hoàn toàn khác nhau). Còn phải kể tới bộ môn
Sex education…. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ xét đến một góc cạnh là vấn đề
bản năng. Tại sao lại vậy?
Kính thưa quí độc giả!
Theo quan điểm của tâm lý học ngày
nay, thì nó là hạ tầng cơ sở quan trọng nhất của bộ máy tâm lý con người (psychic apparatus). Người ta cho rằng, bộ máy này hoạt động là của tinh thần,
hình như độc lập không liên quan gì đến não bộ (?!) (functions of the mind
rather than parts of the brain). Mặt khác, chúng ta phải kể tới rất nhiều bộ
môn khoa học khác đề cập tới vấn đề này:
1.
Behavioral
sciences
2.
Reflexes
and instinct
3.
Maturational
instincts
V.v…
Nếu nhìn ở góc cạnh số lượng, lúc đầu
các chuyên gia thống kê đến 4000 bản năng (đây là một số lượng ít ai có thể
ngờ). Tuy nhiên, khi các công cuộc khảo cứu trở nên nghiêm túc hơn và từ ngữ
được định nghĩa một cách tốt hơn, thì từ ngữ bản năng được từ từ hạn chế dần.
Trong những thập niên 1960 – 1970, người ta thường tranh luận về số lượng bản
năng và thế nào là bản năng hay cách ứng xử con người. Dường như cuối cùng,
Sigmund Freud, được người ta quan tâm tới nhất - với bản năng I.D. Để làm sáng
tỏ vấn đề, chúng tôi xin phép giải thích từ ngữ này ngay lập tức. Vì nếu không
hiểu rõ từ ngữ này, thì khi chúng ta đọc những phần tiếp theo, sẽ trở nên một
thách thức vô cùng khó khăn. Từ ngữ I.D bắt nguồn từ tiếng Đức là Es, nó là
những bộ phận vô tổ chức của cấu tạo cá tính con người. Nó mang tính chất nền
móng của nhân loại, là sự thúc giục mang tính chất bản năng. I.D là yếu tố duy
nhất đã cấu tạo nên cá tính con người từ khi mới sinh ra. Nó là nguồn gốc của
những nhu cầu của cơ thể vật lý, là sự khát vọng, hay những sự thúc giục. Đặc biệt nhất
phải quan tâm tới tính chất tình dục và hiếu chiến của bản năng. I.D chứa đựng
một cách bẩm sinh Libido (năng lượng của tình dục). I.D hành động tuân theo
nguyên tắc khoái cảm (pleasure principle).Nó luôn luôn tránh né khổ đau và
những điều không thích thú. Tinh thần chúng ta luôn luôn bị hướng dẫn bởi I.D.
Nói một cách khác, theo Freud, I.D
mang tính chất vô thức. Nó ở trong bóng tối, chúng ta không thể vươn tới nó.
Với những đặc tính nói trên, thì em
bé mới sinh ra đời, hoàn toàn bị I.D hướng dẫn. Do đó, khi em bé có một nhu cầu
nào đó, thì phải được giải quyết ngay lập tức, nếu không em bé sẽ khóc để đòi
hỏi hay phản đối.
Đứng về mặt đạo đức, I.D không phân
biệt thiện, ác. Nói một cách khác, đạo đức không hiện hữu, nó chỉ tìm cách làm
sao để thỏa mãn những nhu cầu.
Sao Mai says:
Em xin cám ơn
chị HHN! Em hiểu chị mới chỉ trình bày một phần nào, có lẽ là vô cùng nhỏ bé bộ mặt của “The enemy within”. Ít nhất đến bây giờ em hiểu được một phần nào
của câu nói lừng danh: “Kẻ thù lớn nhất trong cuộc đời là chính mình”. Đúng vậy,
chị ạ! Những bản năng cơ bản, có lẽ chính là kẻ thù truyền kiếp của con người,
nếu xét ở góc cạnh tiến hóa. Em có một so sánh không biết có đúng hay không. Các bản năng cơ bản, có lẽ ít nhiều tương ứng với những bất thiện tâm. Em thử đưa
ra một so sánh, chị nghĩ sao:
Căn cứ vào Vi Diệu Pháp, thì ở các
cảnh giới càng thấp, tỉ lệ bất thiện tâm càng cao. Một khi tiến lên những cảnh
giới cao hơn, tỉ lệ các bất thiện tâm giảm đi dần dần. Cụ thể là, bản tánh “sắc”
là một tính chất vật chất để phân biệt giống đực và giống cái. Nó phai lợt đi
từ từ ở cảnh thiên dục giới, đến chấm dứt hoàn toàn ở cảnh sơ thiền hữu sắc.
Căn cứ vào thuyết sinh học, thì cứ
sinh vật nào hệ thống thần kinh phát triển, như con người chẳng hạn, thì tính
chất của bản năng ảnh hưởng có giới hạn. Nhưng nếu hệ thống thần kinh quá đơn
giản, thì những bản năng cơ bản lấn át. Thật vậy, ở một số sinh vật hạ đẳng,
việc quan hệ tình dục có lẽ chỉ mang tính chất thuần túy vật chất. Nhưng ở con
người có hệ thống thần kinh phát triển hơn, thì còn kèm yếu tố tình cảm, một
yếu tố tâm lý không kém phần quan trọng.
Từ đây, chúng ta có thể suy ra,
trước khi tiến hóa lên một đẳng cấp cao hơn con người, thì việc chống lại bản
năng và những phản xạ tự nhiên sẵn có, có lẽ không phải là một việc làm dễ chịu.
HHN says:
Đúng đấy, Sao Mai ạ! Có người nói:
“Thiếu sót lớn nhất trong đời là thiếu hiểu biết”, “ Tài sản lớn nhất trong đời là sự hiểu biết
và sức khỏe”. Trong khoa học thường nói: “Ngoài tính chất thực dụng của sự hiểu
biết, hiểu biết còn là một thú vui”.
Có lẽ tu mà mù kinh, mù khoa học …
cũng là một trở ngại trên con đường tiến hóa.
Sao Mai says:
Em xin cám ơn
chị với những sự trao đổi ngày hôm nay! Dường như bộ môn khoa học nào cũng phải
đi qua những cơn khủng hoảng, mà còn nhiều cuộc khủng hoảng thì đúng hơn. Trong ngành hóa
học, thì đi từ việc luyện kim chuyển qua việc nghiên cứu và phát hiên các yếu tố hóa học và bản chất của nó không phải là việc dễ dàng. Từ bỏ được lý thuyết địa
tâm cũng phải trả giá rất đắt. Có lẽ bộ môn tu thiền định cũng phải đi qua
những cơn khủng hoảng cần phải có. Chẳng có bộ môn khoa học nào trưởng thành mà
lại không trải qua những cơn đau đẻ khó khăn. Có lẽ bộ môn thiền định cũng
không loại trừ. Chúng ta hãy đợi và xem.
Em xin trân trọng kính chào toàn thể
quí độc giả!
Những bài viết này chỉ là sản phẩm
của trí tưởng tượng. Vì không được một cơ quan hữu trách nào xét duyệt, nên không có
giá trị về khoa học xét ở bất cứ bình diện nào.
Sao Mai!
Tào lao mà cũng vướn nưa. Hayza!
ReplyDelete