Khi nói đến những từ như đàn ông, đàn bà, con mèo, con chó, Thần linh thì cách gọi này là tục đế theo thế gian thường tình, nhưng nếu gọi là thực thể, chúng hữu tình… có thể hiểu là một sinh vật nào đó. Quan điểm này rõ ràng là đi ngược lại những gì đã mặc định của xã hội Ấn Độ.
Saturday, January 4, 2014
Saturday, January 04, 2014 by Unknown1 comment
Sao Mai says:
Em có đọc rất kỹ trên trang blog của chị, em nghĩ là em đã suy
nghĩ rất kỹ về bài viết nói trên. Em cảm thấy quan điểm chủ quan của chị, ít
nhiều giống như những tác giả “ Narada , Pa -Auk Sayadaw…”, và còn rất nhiều các chuyên gia khác, tất
nhiên có cả các tác giả Việt Nam .
Em cảm thấy “ Lòng tin cao hơn lý trí” thì phải, thay vì đi hỏi thiên nhiên và
tìm câu trả lời từ thiên nhiên, thì lại dựa vào “ Tín điều và thánh kinh”. Em
cảm thấy như mình đang sống ở thời của Aristote cách đây đã trên 2300 năm, cái
thuở mà cái gì thánh kinh nói là phải
đúng, Aristote nói là phải đúng…, cái gì ngược lại với hai tiêu chuẩn nói trên
là sai. Thậm chí là đến thuở Newton, có thể nói là người khai sanh ra khoa học
hiện đại, cũng phải cầu cứu tới cái đẩy đầu tiên của Thượng Đế, làm cho vũ trụ
chuyển động theo những định luật nhất định. Em mơ ước có ngày Thượng Đế, Thần
linh, Bồ Tát, Phật A Di Đà, … hãy tự động về hưu, trả lại trường phái Phật giáo
nguyên thủy cho Sakya Muni. Em mơ ước thời thực nghiệm của Sakya Muni sẽ sống lại, “ Tín điều
và thánh kinh” rồi ngày nào là kỷ niệm của dĩ vãng, xin chị cho biết ý kiến.
HHN says:
Chị xin chào Sao Mai!
Ở đây chị chỉ nói là “ Một cái nhìn
chủ quan…”. Có nghĩa là, có nhiều cái nhìn chủ quan! Như em biết đấy, lịch sử
có thể có một tiến trình biện chứng.
Sao Mai says:
Chị làm em rất ngạc nhiên! Có nghĩa
là chị có nhiều cái nhìn về trường phái Tịnh Độ của Trung Quốc…Chị có thể vui
lòng cho em biết một trong những cái nhìn khác.
HHN says:
Vâng, em cũng biết “ Không có gì có
thể cao hơn sự thật”. Sự kiện lịch sử là một hiện tượng khách quan tự
nhiên (Tất nhiên với điều kiện là lịch sử
được ghi chép lại một cách khách quan, trung thực).
Kính thưa Sao Mai cùng quí độc giả!
Chúng ta phải nói rằng, Sakya Muni
là một hiện tượng có một không hai trong lịch sử của cả khoa học lẫn tôn giáo.
Điều này hoàn toàn không quá đáng nếu chúng ta xét về bối cảnh lịch sử của Ấn
Độ vào thời kỳ Sakya Muni xuất hiện. Ấn Độ giáo ngự trị xã hội Ấn Độ với rất
nhiều hệ phái không thể kể hết. Những tài liệu gọi là kinh Veda thì chỉ là
những tài liệu ca ngợi thần linh, thủ tục tế lễ, cầu xin…. Nói một cách khác,
thần linh chính là con đẻ của con người, là biểu tượng của sự giải thoát của
bản năng tình dục con người, nay đứng lên thống trị xã hội. Với 4 - 5 ngàn đẳng
cấp, 40 - 50 ngôn ngữ chánh, thì chúng ta tưởng tượng một xã hội như thế nào.
Giới tu sĩ tự cho mình là xuất thân từ cái miệng của thần linh, sau đó là vua
chúa… còn tất cả là các đẳng cấp còn lại có lẽ sanh ra để phục vụ. Thậm chí đến ngày
hôm nay, sự phân hóa này vẫn ngấm ngầm tồn tại trong xã hội. Đây là bài toán
khó giải cho tất cả các thời đại của Chánh phủ Ấn Độ.
Hiện tượng Sakya Muni, nó cũng giống
như việc truất phế vị trí trung tâm của trái đất trong kinh thánh, đưa xuống
hàng thứ dân. Hệ nhật tâm được đưa lên thay thế. Sakya Muni đã làm công việc
đưa con người vào vị trí trung tâm, trong một thế giới không có Thượng Đế và
Thần Linh. Việc làm này, trong một bối cảnh xã hội như vậy, mà không bị ở tù,
không bị hành hạ cho đến chết, không bị đưa lên giàn hỏa như Bruno… là một điều
lạ, không biết lịch sử có gì thiếu xót hay không? … Ở một xã hội đầy rẫy các
loại thần linh, tín điều, cấm đoán thay cho tri thức luận lành mạnh, mà một
người với chủ nghĩa duy vật có thể sống yên ổn là một điều lạ. Một điều đặc
biệt chúng ta phải quan tâm là: nếu gọi là một chủ thuyết, thì chỉ có một
người duy nhất là Sakya Muni là tác giả, không hề có một cộng tác viên nào khác. Và tất nhiên nếu
gọi Sakya Muni là một vị Phật, thì không có vị Phật thứ hai. Nếu có vị Phật thứ
hai trong giai đoạn này, thì phải bảo là một tác phẩm hàng nhái, ngụy tạo….
Việc quan sát vũ trụ bằng viễn vọng
kính do Galilê thực hiện vào năm 1610 là lần đầu tiên nhân loại được nhìn
thấy bầu trời đúng như sự thật. Khái niệm về thế giới trên trời của các thiên thần, của
Chúa… cũng chẳng khác gì thế giới dưới đất. Tóm lại, thế giới trần tục dưới đất
và thế giới thần linh trên trời cũng chẳng có gì khác nhau. Cũng thế, trong một
buổi nhập định nổi tiếng, Sakya Muni đã sử dụng “cận vọng kính”, phát hiện ra
các tâm cấu tạo nên con người, phát hiện ra luồng tâm thức; phát hiện ra tiến
trình cấu tạo tâm mà một thực thể có thể thực hiện được do ý chí của chính
mình. Như tất cả mọi người đều biết, Ngài phát hiện ra làm sao để giải quyết,
đi ra khỏi cảnh giới “ phi tưởng, phi phi tưởng” - còn gọi là siêu thế giới,
siêu thế tâm - đạt được trạng thái Santi, cũng được gọi là Niết Bàn. Tiến trình này là một tiến trình mà con người có thể làm chủ được chính mình, không cần có sự
can thiệp của Thượng Đế, Thần linh hay thậm chí cả một vị Phật nào. Có những câu nói nổi
tiếng mà có lẽ ai cũng biết “ Tự thắp đuốc mà đi”; “ Hiểu biết đúng đắn là thầy
của mọi người”.
Kính thưa quí độc giả cùng Sao Mai!
Xã hội của Sakya Muni là một xã hội
hoàn toàn không có giai cấp, không phân biệt bất cứ một cái gì. Người theo
truyền thống Phật giáo hay sử dụng từ ngữ gọi là Đệ Nhất Nghĩa Đế chứ không
phải là Tục Đế. Để minh họa điều này, chúng tôi xin giải thích như sau:
Khi nói đến những từ như đàn ông, đàn bà, con mèo, con chó, Thần linh thì cách gọi này là tục đế theo thế gian thường tình, nhưng nếu gọi là thực thể, chúng hữu tình… có thể hiểu là một sinh vật nào đó. Quan điểm này rõ ràng là đi ngược lại những gì đã mặc định của xã hội Ấn Độ.
Khi nói đến những từ như đàn ông, đàn bà, con mèo, con chó, Thần linh thì cách gọi này là tục đế theo thế gian thường tình, nhưng nếu gọi là thực thể, chúng hữu tình… có thể hiểu là một sinh vật nào đó. Quan điểm này rõ ràng là đi ngược lại những gì đã mặc định của xã hội Ấn Độ.
Vấn đề thứ hai là: cách tu tập của
Sakya Muni là một cách rất sát với khoa học thực nghiệm - đặt câu hỏi cho thế
giới tự nhiên và tìm câu trả lời trong thế giới tự nhiên. Có lẽ là Ngài là người khai
sanh ra chủ nghĩa duy vật. Nói một cách khác, Thần linh, Thượng Đế đã bị Sakya
Muni khai tử.
Thói quen của xã hội là tuân theo
những định kiến, những chuẩn mực của Thánh nhân đi trước. Ít nhiều Sakya Muni
đã từ chối vai trò là “Tiến sĩ nhai lại”. Chúng ta không phủ nhận lý thuyết của
Sakya Muni, ít nhiều cũng du nhập những tư tưởng của Ấn Độ giáo: luân hồi,
nghiệp,…. Cho dù là với một vị Phật như Sakya Muni, người ta vẫn thấy câu nói
“ Không có gì có thể xuất hiện từ hư không…” ít nhiều có lẽ cũng đúng.
Sao Mai says:
Kính thưa chị HHN!
Theo như phần trình bày của chị, với
tính chất cô đọng rất cao về tư tưởng và những diễn biến lịch sử của thời Sakya
Muni, thì em thấy chẳng có chỗ đứng nào cho các vị Phật, mà người ta thường thờ
phụng cả. Điều lại càng làm cho em kinh ngạc là thực tế em thấy những nơi
gọi là cơ sở Phật giáo lại thờ phụng những vị Phật, kể cả việc miệng họ niệm một
cách vô cùng phổ thông là “ Nam mô a di
đà Phật”. Chị còn nhớ một bài thơ của một tác giả nào đó, có lẽ từ thế kỷ
trước:
“ Hôm qua em đi chùa Hương
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
…
Thẹn thùng em không nói
Đấy, chị thấy đấy, em có thấy ai
niệm “ Nam
mô Sakya Muni” đâu ?! Em thiết nghĩ chẳng phải mình em, kể cả tu sĩ Phật giáo,
tín đồ… cũng chẳng ai rõ tại sao lại như vậy. Nói theo kiểu vật lý học, dường
như cả câu nói của con người cũng có tính chất quán tính! Mình phải hiểu thế
nào mới là đúng hả chị?
HHN says:
Điều em trình bày có lẽ không phải
là sai. Các vị Phật mà ngày hôm nay được thờ phụng ở tại các Chùa Đông Nam Á, nói
chung chung, là các vị Phật do người Trung Quốc sáng tạo. Chính những tài liệu
chính quy của Phật giáo Trung Quốc, Đài Loan…
xác nhận là tác giả đã chế tác ra các vị Phật nói trên là ngài Đại sư
Trung Quốc Tuệ Viễn ( hay còn gọi là Huệ Viễn). Theo lịch sử, vị Đại sư này là một người
thông kim bác cổ. Chính Ông là người đã viết phần nhập đề cho tài liệu “Tam
Pháp Độ Luận”. Để duy trì tính chất khách quan cao, mong quí độc giả tự tham
khảo tiểu sử hay huyền sử của những vị Phật như: A Di Đà, Đại Thế Chí, Văn Thù
Sư Lợi, Quán Âm Tự Tại, Di Lạc…. Nếu theo những tài liệu này, thì còn có cả các
vị gọi là Cổ Phật như: Nhiêu Đăng… không biết tôi nhớ có đúng hay không? Nếu
chấp nhận có những vị cổ Phật theo truyền thống của Trung Quốc, thì tất nhiên
sẽ đưa đến một hệ quả mà có lẽ sẽ làm mọi người sẽ lúng túng. Sakya Muni không phải
là kiến trúc sư của trường phái Phật giáo đóng vai trò kiểu như: nhà tiên tri,
Thánh…. Đại diện, được mặc khải để mang thông tin đến cho con người… Nếu thế
này thì mọi việc sẽ rối tinh cả lên!
Sao Mai says:
Em ít nhiều đã hiểu những thông tin mà chị đã đưa lại về vấn đề Tịnh
Độ của Trung Quốc. Hèn chi, các chuyên gia còn đi xa hơn nữa. Họ cho là có rất
nhiều tài liệu như: kinh Vu Lan, kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bát Nhã… đều là sản phẩm
của người Trung Quốc, Hàn Quốc và có cả Việt Nam. Nhìn ở góc cạnh Phật giáo
nguyên thủy, người ta gọi là kinh ngụy tạo và tất nhiên phải có trường phái
ngụy tạo… người Việt Nam
ngày hôm nay đơn giản gọi là “ hàng nhái”.
Em chân thành cám ơn chị!
Mà chị ơi! Em còn một thắc mắc, em
thấy dường như chị có phép phân thân thì phải? Vì em thấy chị là một con người
có mà lại nhiều quan điểm khác nhau?!
HHN says:
Sao Mai à ! Mà nếu thật như vậy
thì làm sao nhỉ ?!...
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Câu chuyện trong cuộc đàm thoại giữa Tam Tiểu Thư và HHN làm cho tôi thật sự thấy lúng túng. Như vậy có rất nhiều loại kinh không phải là kinh sách của Đức Phật Thích Ca truyền lại hay sao? Vậy xin chị HHN và TTT cho biết, những kinh nào mới là kinh chính gốc của Phật giáo Ấn Độ? Tôi có thể tìm đọc những cuốn sách nào?
ReplyDelete