Friday, January 3, 2014
Friday, January 03, 2014 by Unknown2 comments
Sao Mai says:
Chị HHN à ! Em nhờ chị một tí!
HHN says:
Ừ, em cứ nói đi!
Sao Mai says:
Em biết chị có cuốn Tạp Thư, chị mua
ở chợ trời, cuốn này hơi bị được đó nha ! Em thấy cần tìm cái gì cũng có. Chị xem thử trong đó, nó nói gì về hệ quả của việc định tâm.
HHN says:
Theo thông tin trong cuốn Tạp Thư,
thì hệ quả của việc định tâm nhiều vô số kể, không thể kể hết. Vì nó lệ thuộc ở
rất nhiều yếu tố mà chúng ta chưa biết. Thật vậy, mô hình định tâm của trường phái
Phật giáo nguyên thủy là một mô hình có lẽ nổi tiếng trong ngành tu thiền định.
Tuy nhiên, chúng ta còn phải kể đến rất nhiều các mô hình khác, của các trường
phái khác. Mục đích của trường phái Phật giáo nói chung là đoạn các phiền não
để đưa đến cứu cánh cứu cùng là Niết Bàn. Nhưng ngay trong Phật giáo lại cũng
có những Tông phái không chủ trương như vậy. Điển hình như phái Tịnh Độ Tông của Phật giáo Trung Quốc,
người tu mong muốn đạt được sự nhất tâm bất loạn ( cũng là một dạng thiền định)
để về cõi Tịnh Độ.
Sao Mai says:
Qua sự trình bày của chị, em thấy đúng
như chị nói, hệ quả của việc định tâm không đơn giản như người ta nghĩ. Mặt
khác, còn phải quan tâm tới vấn đề định nghĩa việc định tâm là thế nào, hiểu
thế nào là định tâm. Kỹ thuật định tâm, căn cứ vào tài liệu Vi Diệu Pháp của trường
phái Phật giáo, có thể là một trong nhiều kỹ thuật khác để đưa đến sự định tâm
mà chúng ta không thể biết hết. Thật vậy, không ai dám quả quyết, mà thực sự
dựa vào tiêu chuẩn nào để mà quả quyết là loại kỹ thuật định tâm nào là tối ưu?
Như quí độc giả cũng biết, trên thế giới có rất nhiều trường phái người ta sử
dụng rất nhiều kỹ thuật phụ trợ: thông thường nhất là chất say, các dạng chất
say… để tạo ra trạng thái mất đi ý thức. Do đó, trong sân chơi gọi là nhập
định, định tâm…. Chúng ta khó có cơ sở nào để bảo là kỹ thuật này là hay, là
đúng hay kỹ thuật khác là không hay, không đúng…. Chính vậy, hệ quả của hiện
tượng định tâm tất nhiên là lệ thuộc vào tiên đề, mục đích và kỹ thuật định
tâm.
HHN says:
Nếu em hiểu như vậy thì rất tốt,
chúng ta không ngạc nhiên vì có quá nhiều loại hệ quả. Ta lấy hai trường hợp
điển hình: trường hợp thứ nhất của người tu thiền định Phật giáo nguyên thủy,
họ coi việc định tâm, là một cửa ngõ bắt buộc phải đi qua, trên cơ sở này, họ
triển khai các lớp thiền định, để diệt trừ phiền não, mục đích tối hậu cuối
cùng là đạt được trạng thái an tịnh mà từ ngữ chuyên ngành gọi là yếu tố Santi.
Chúng ta lại thấy có những dân tộc, họ sử dụng các loại chất say làm mất đi ý
chí. Người mà ở trạng thái định tâm này, nằm bò dưới đất, thái độ giống như các
thú vật hoang dã, thời gian có thể kéo dài nhiều giờ đồng hồ. Điều này chắc quí
độc giả cũng từng được xem các bộ phim tương tự của chương trình Discovery.
Bắt buộc chúng ta phải chọn một mô
hình kỹ thuật tiêu biểu nào đó để đưa đến việc định tâm. Ở đây chúng tôi xin đề
nghị chọn mô hình của trường phái Phật
giáo nguyên thủy. Chúng tôi thử trình bày một số hệ quả khá phổ biến của những
người tu thuộc trường phái hàn lâm kinh điển này.
Sau đây, chúng ta thử
liệt kê một số hệ quả thường xảy ra:
1.
Cứ
cho là, ai đó căn cứ vào chân ngôn “ Tư cách chú tâm vào một vật duy nhất ở
đằng trước mặt”. Vâng, đó chính là phát biểu cơ bản định nghĩa về chánh định.
Trong tài liệu Vi Diệu Pháp có mô tả người sử dụng loại công án này hay đối
tượng này, chú tâm quán tưởng, đối tượng quán tưởng sẽ đi qua 3 giai đoạn. Kết
quả là người tập luyện kiên trì và có lẽ phải kèm theo một tí may mắn, thì may
ra tạo được trạng thái định tâm. Nếu chỉ với cách hiểu biết này, thì qua những
bỡ ngỡ ban đầu: cảm thấy ngứa ngáy, nghiêng qua, nghiêng lại, lúc nặng, lúc
nhẹ, thấy hà sa, thấy mô ni châu. Thậm chí là nghe cả tiếng nổ bên tai, trên
đỉnh đầu, người tu thiền định hay gọi là “Tam huê tụ đảnh, ngũ khí triều nguyên”.
Phải nói rằng đây là kết quả vô cùng tích cực, mà không hẳn ai cũng có được.
Nhưng bản thân người định tâm thì phân vân chẳng biết mình phải làm gì tiếp
theo. Y như một du khách lần đầu tiên đến đâu đó, bị mất phương hướng, không
biết đi về đâu.
2.
Ở
trạng thái vừa kể trên, ý thức thì đã mất, ý thức mới của cảnh giới thiền định
thì quá non trẻ, hoàn toàn không có một kinh nghiệm gì cả. Như chúng ta nói ở
trên, không phải chỉ có người tu thiền định Phật giáo mới nhập định được (chúng
ta nên để ý, người tu theo truyền thống Phật giáo, họ thường tôn trọng công
thức “ Giới, định, huệ”) - mà các trường phái khác, họ cũng có thể nhập định do
những tác nhân khác, kỹ thuật phụ trợ khác (chân ngôn, chú pháp, chất say…Họ
không sử dụng công thức “ Giới, định, huệ”). Do đó, vì lối sống và thói quen sinh
hoạt rất đời thường, họ rất gần với các cảnh giới là các vong linh – những thực thể không có thân xác vật chất. Ở trạng
thái định tâm này, họ trở thành miếng mồi ngon của các vong linh không có thân
xác vật chất. Thân xác vật chất của người định tâm trở nên vô chủ, vì cấu tạo
tâm của người định tâm không còn tương thích, do đó các vong linh sử dụng thân
xác này để thỏa mãn các nhu cầu vật chất: ăn uống, quan hệ nam nữ, thích được
người ta gọi là cô, cậu, thầy, chữa bệnh, tiên đoán những việc gần gần.
3.
Chúng
ta vẫn lấy mô hình tiến trình định tâm của Phật giáo nguyên thủy. Ai cũng biết,
định ở lớp thấp nhất sanh ra hỉ, lạc. Nếu người tu thiền định hiểu biết hạn
chế, họ sanh ra tâm lý thích nhập định, mà thực sự thì ai cũng vậy cả, đó là
tâm lý của tất cả những người thực sự nhập định được. Lý do dễ hiểu, khi nhập
định thì nhất thời các phiền não chấm dứt, thân tâm hỉ lạc. Khoa học ngày hôm
nay thì cho rằng đó là hệ quả của hai hóa chất Dopamine và Noradrenaline. Người
sử dụng thuốc phiện cũng làm cho những hóa chất nói trên xuất hiện một cách ào
ạt, nhưng sau đó thì chấm dứt một cách đột ngột. Việc này khác với người tu
thiền định, những hóa chất tiết ra mang tính chất điều tiết, không ào ạt.
4.
Kể
cả với trường phái Phật giáo, ai cũng biết Phật giáo chia ra rất nhiều Tông phái. Ở tại Tây Tạng, cũng có những vị tu sĩ tu thiền để mong đạt được sự định tâm
với mục đích là tập luyện các phép tắc, bùa chú…. Họ sử dụng phép tắc bùa chú làm công cụ để sinh sống một cách rất đời thường. Thậm chí họ cho đây là một
nghề nghiệp.
5.
Bây
giờ chúng ta phải nói đến những trường phái khác nữa mà họ cũng tập trung tư
tưởng để nhập định. Sự thật có định tâm được hay không thì không ai biết được.
Nhưng có lẽ người ta đã tạo ra một trạng thái mà tâm lý học gọi là tự kỷ ám
thị. Họ tưởng rằng mình là ai đó, là thần thánh…. Họ cho rằng mình mở nhãn, mở
huệ, tiên đoán quá khứ vị lai…. Nói tóm lại, có lẽ là dạng hoang tưởng.
6.
Cũng
có những vị thực hành thiền định đạt được sự định tâm, nhưng tư chất bình
thường, qua nhiều năm tháng tập luyện, cũng chẳng có tiến triển được bao nhiêu.
Lại có những vị có những sự tiến triển nhất định, nhưng thấy con đường dịu vợi
quá xa. Và họ chấp nhận quên đi cuộc sống đạo hạnh, vui sống những ngày còn lại
của cuộc đời với Dakini, Yidam….mà người
ta còn gọi là thần hộ mệnh, kẻ trợ duyên…. Sự thật đây là một bí ẩn, vì có ai
tự thuật lại đâu mà biết là cái gì.
7.
Tất
nhiên như đã nói ở trên, điển hình như trường phái Cria Yoga, theo ngài
Yogananda có kể lại - ngài đã gặp một số
vị gọi là chân sư mà khi sắp đến giai đoạn cuối của cuộc đời thế gian, các vị đó
đã mời các thân nhân và những người quen biết đến tham dự một buổi chia tay. Những
vị chân sư này, sau khi nói lời chia tay, nhập vào định, sử dụng kỹ thuật bí
mật của trường phái mình, bỏ lại thân xác thế gian ra đi.
8.
Dù
bất cứ ở trường phái nào đi chăng nữa thì việc định tâm cũng không phải luôn
luôn là hệ quả tích cực, đưa đến những kết quả đáng mong đợi. Thật vậy, việc
dồn nén tâm lý một cách vô ý thức, rất có thể đưa đến hệ quả thác loạn tâm lý,
thậm chí là điên.
9.
Việc
khảo cứu những người nhập định ở tại các phòng thử nghiệm thì nhiều vô số kể.
Nhưng những thử nghiệm này có chính xác hay không thì chúng ta cần phải xem
lại. Thậm chí có cả một thử nghiệm ở tại nước Mỹ. Theo thử nghiệm này, thì
người ta cho biết có 170 người nhập định. Căn cứ vào các đo lường bằng các công
cụ vật lý, người ta cho rằng kết quả rất tích cực. Liệu chúng ta có thể tin một
lúc mà có đến 170 người nhập được định. Điều này làm chúng ta phải suy nghĩ. Chính
những người đứng ra thực hiện chương trình thử nghiệm này cũng chưa có một sự
hiểu biết chính xác thế nào là nhập định.
10. Kết quả của các đo lường thì thường
có những tín hiệu lạc quan:
-
Tạo
được sóng Gamma
-
Áp
huyết có hạ xuống
-
Nhịp
tim bớt đi 3 nhịp đập trong 1 phút
-
Thần
kinh có cải thiện, não có những biến đổi
Sao Mai says:
Em thiết nghĩ chắc còn rất nhiều hệ
quả mà chúng ta không thể kể hết được.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một bài viết trí tuệ, đầy biện chứng khoa học!
ReplyDeleteBài viết của tác giả rất sâu sắc. Những phần kiến thức được trình bày cho thấy tác giả là một người am hiểu nhiều về kiến thức khoa học, và có thể cũng là đã trải qua một bề dày nghiên cứu sâu sắc.
ReplyDeleteXin cảm ơn tác giả!
Minh Khánh