Tuesday, January 7, 2014




Minh Khánh says:

Câu chuyện trong cuộc đàm thoại giữa Sao Mai và HHN làm cho tôi thật sự thấy lúng túng. Như vậy có rất nhiều loại kinh không phải là kinh sách của Đức Phật Thích Ca truyền lại hay sao? Vậy xin chị HHN và Sao Mai cho biết, những kinh nào mới là kinh chính gốc của Phật giáo Ấn Độ? Tôi có thể tìm đọc những cuốn sách nào?

Sao Mai says:

Em xin trân trọng  kính chào quí độc giả Minh Khánh!

Trước nhất, em xin cám ơn quí độc giả đã có hảo ý ghé thăm trang blog của em! Em hy vọng những thông tin mà em sẽ đóng góp với quí độc giả, sẽ giúp ích không những cho quí độc giả Minh Khánh mà còn nhiều quí độc giả khác thực sự quan tâm tới vấn đề này.

Thật vậy, tôn giáo là một đề tài nhạy cảm và tế nhị. Kể cả các chuyên gia cũng ngại ngùng khi tiếp cận với đề tài này, vì ít hay nhiều sẽ đụng chạm tới quan điểm của nhiều tỷ người trong những trường phái lớn, thí dụ: Cơ Đốc giáo có thể có đến trên 2 tỷ tín đồ, Hồi giáo có lẽ có 1,5 tỷ tín đồ, Phật giáo cũng ước tính có 1 đến 2 tỷ trở lên…. Một sự thật mà làm cho người ta lại càng e ngại, đó là có rất nhiều tín đồ của các trường phái thực sự là mù kinh và mù chữ. Em xin giải thích tại sao lại sử dụng hai từ ngữ này. Kết quả của những cuộc thăm dò, khảo sát đã cho biết: ngay tại nước Mỹ, nơi được mô tả như là một đất nước cực kỳ phát triển, nhưng khi có nhiều tín đồ Cơ Đốc giáo được phỏng vấn về nội dung tài liệu kinh thánh, thì họ lại chẳng biết ở trong kinh thánh nói gì. Đối với kinh Koran, tình hình cũng chẳng sáng sủa gì hơn, có thể tệ hơn không chừng, số tín đồ nam giới mù chữ, không hiểu kinh đã nhiều, nữ tín đồ mù chữ còn đông hơn nữa…. Do đó, khi bàn luận tới những vấn đề  liên quan đến khảo cứu, học thuật, cho thấy rằng người ta sẽ chạy theo những may rủi, bất trắc rất là cao!

Tuy nhiên, trường phái gọi là Vua Yoga của Patanjali thì lại chỉ có một cuốn kinh. Có tài liệu có 195 câu; có tài liệu như tài liệu ở tại Việt Nam thì có 250 câu, gồm tất cả 1161 chữ. Thánh kinh của Cơ Đốc giáo in tại Việt Nam có trên 2000 trang, gồm cả cựu ước lẫn tân ước. Nếu coi Khổng Tử và Lão Tử là một loại tôn giáo nào đó, thì họ cũng có những tài liệu rõ ràng: Tứ tư, ngũ kinh, đạo đức kinh… Cũng mong quí độc giả nhớ lại, có thể coi thời kỳ Khổng Tử và Lão Tử cũng cùng ở thời đại của Sakya Muni - cách đây trên 2500 năm. Tài liệu triết học hay gọi là thời kỳ “trăm hoa đua nở”. Kinh Koran có 114 chương, 6236 tiết, được coi là lời phán của thánh Allah, nhưng số lượng chỉ bằng 4/5 kinh thánh.

Sỡ dĩ em phải dài dòng cùng quí độc giả về vấn đề này, để quí độc giả có một bức tranh tổng quát về các tài liệu tạm gọi như lý thuyết (nói theo ngôn ngữ khoa học), Thánh kinh (nói theo ngôn ngữ tôn giáo). Nói tóm lại, những Thánh thư này là lời phán của đấng siêu nhiên từ ngày xuất hiện đến nay, không thêm không bớt được. Để chứng minh sự cứng nhắc của các tài liệu này, chúng ta có thể lấy một trường hợp điển hình tại Iran. Hằng năm đều có cuộc thi, xem ai có khả năng thuộc lòng Thánh thư Koran, đọc liên tục không vấp váp, nếu đạt được chuẩn mực này, thì tại nước Hồi giáo Iran, được cấp bằng Đại Học.

Một lần nữa em xin nhắc lại, các Thánh thư từ khi ra đời cho đến ngày hôm nay, không thể thêm, cũng không thể bớt một từ nào, mặc dù những cuốn kinh Thánh Cơ Đốc Giáo này có thể đã được in hàng trăm triệu cuốn. Con số có thể còn lớn hơn con số em vừa đưa ra, nhưng nội dung tuyệt đối không thay đổi.

Kính thưa quí độc giả Minh Khánh!

Điều quí độc giả đưa ra, mới thoáng nhìn có vẻ đơn giản, thực sự đây là bài toán đau đầu cho chính bản thân trường phái Phật giáo. Thật vậy, nếu khảo cứu các tài liệu mà một số vị có chức sắc, ít nhiều có thẩm quyền trong trường phái Phật giáo viết ra, thì em thấy dường như họ có chung một thái độ, có lẽ để chứng minh là bản thân Phật giáo là một chủ nghĩa từ bi. Cho nên một số quí vị nói trên thường tìm cách dung hòa Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo Trung Quốc. Chúng ta có thể nhận biết tư tưởng này trong rất nhiều tài liệu của rất nhiều tác giả nổi tiếng. Phần đầu của tài liệu thì được trình bày mang màu sắc Phật giáo nguyên thủy, đến phần cuối lại thấy sự xuất hiện của Phật giáo thuần túy Trung Quốc như: Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, chức vụ Bồ Tát thay thế cho A La Hán của hệ phái Tiểu Thừa. Việc này làm cho độc giả vô cùng phân vân và bối rối. Vì tất nhiên ai cũng biết, không phải độc giả nào cũng là chuyên viên, chuyên gia cả. Ngày hôm nay, việc này có vẻ lại càng trầm trọng hơn nếu lấy học thuyết Phật giáo nguyên thủy làm thước đo.

Chúng ta chỉ cần vô một chỗ bán kinh sách của một nhà sách lớn nào ở tại Sài Gòn, hay nơi bán sách của những Chùa lớn tại Sài Gòn, thì phải bảo “thiên kinh vạn quyển” quả là không ngoa. Vấn đề đặt ra là hệ quả của hiện tượng này như thế nào? Thật vậy, nếu cứ căn cứ theo huyền sử cho rằng ngài Sakya Muni là người duy nhất đã sử dụng kỹ thuật thiền định một cách xuất sắc, và sau đó bỏ lại thân xác vật lý ra đi. Vậy chính tác giả của những tác phẩm này và người đọc những tác phẩm hiện tại đang được bày bán này có thực hiện được những thao tác mà họ nói trong những tác phẩm đó hay không? Mặt khác, nếu chúng ta công nhận Sakya Muni là kiến trúc sư duy nhất của trường phái Phật giáo, vậy thì tác giả của những tài liệu nói trên nếu không thực hiện được những thao tác như Sakya Muni đã từng làm, thì có thể khẳng định rằng những tài liệu được viết ra bởi các vị nói trên là “ hàng nhái”. Đây là một từ ngữ rất phổ thông trong xã hội ngày hôm nay. Có lẽ chẳng ai lại muốn mình mua phải hàng giả, kinh giả…. vì có thể nói một cách nôm na là “tiền đã mất, tật còn mang”. Ai đó thực sự muốn tu - nói theo tinh thần Phật giáo là  thoát khỏi bể khổ, bến mê; đoạn hết vô minh, khô cạn phiền não, đến bờ giải thoát… như Sakya Muni đã từng làm. Nhưng nay lại gặp phải “ thầy nhái”, “ kinh nhái” nói tóm lại là “hàng dỏm”, tai hại không biết thế nào mà lường!




Tại sao lại có hiện tượng này?

Muốn trả lời câu hỏi này, chúng ta phải lướt qua những giai đọan lịch sử quan trọng nhất của trường phái Phật giáo. Em xin tóm tắt sơ lược một số vấn đề cơ bản nhất, rất có thể quí độc giả đã biết rất rõ, nhưng vì bận rộn với cuộc sống có thể đã quên đi.

Kiến trúc sư trưởng của trường phái Phật giáo là ngài Sakya Muni, người ta gọi ngài là Phật, thời gian tìm hiểu, thực hành chỉ có một mình, không hề có một cộng sự, một người nào chia sẻ cùng Ngài. Chúng ta không thể tìm thấy trong bất cứ tài liệu nào, là Sakya Muni có cộng tác viên! Cho đến khi Ngài công bố những hiểu biết của mình về vấn đề này, thì vẫn chỉ có một mình mình. Có một câu nói nổi tiếng mà nhiều người biết, mà mong cả quí độc giả cũng không nên quên: “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”. Hiểu theo nghĩa tích cực, Sakya Muni chỉ có một mình! Vậy mà sau này, chúng ta cũng lấy làm ngạc nhiên, không biết ở đâu xuất hiện ra đến “vạn Phật”, vậy mà được rất nhiều người chấp nhận một cách khá vô tư không thắc mắc gì cả, thật là một thái độ từ bi đáng kinh ngạc!

Theo lịch sử thì dường như có khoảng 4 lần người ta sắp xếp, hệ thống hóa lại những gì được ghi lại từ lời nói của Sakya Muni. Qua những đợt đúc kết này, thì người ta cho là có khoảng 5 bộ kinh chánh, tài liệu quen gọi là Vi Diệu Pháp và các tài liệu gọi là giới luật. Chỉ cần nhìn vào những lần đúc kết kinh tạng nói trên, một người ngây thơ cho lắm cũng thấy chẳng có tài liệu nào là Tiểu Thừa, hay Đại Thừa cả, mà chỉ có kinh sách của Phật giáo. Theo em nghĩ, đây là một bằng cớ lịch sử về tư liệu kinh tạng  cụ thể nhất, không cẩn gì phải tranh luận.

Vậy thì những kinh sách Đại Thừa ở đâu mà ra? Số tài liệu kinh sách Đại Thừa nhiều vô số kể đã thực sự khống chế trường phái Phật giáo trên khắp thế giới. Em có thể đan cử một thí dụ, ai cũng biết đến tên các loại kinh: Pháp Hoa, Thủ Lăng Nghiêm, Vu Lan, Bát Nhã…. Vậy mà, có cả những người tự cho mình là tu sĩ Phật giáo, dường như không đọc thì chẳng nói làm gì, mà chưa nghe thấy tài liệu Vi Diệu Pháp bao giờ! Thực tế, ai cũng đọc “ nam mô a di đà Phật”. Một người Việt Nam chẳng cần phải là một tín đồ Phật giáo, họ cũng biết chân ngôn này. Thật vậy những từ ngữ phiên âm từ chân ngôn “ Na mô Amitaba Hari Soaha”…. Người ta không thể ngờ được rằng, vị Phật gọi là Amitaba, nếu gọi là một người, một vị Phật… thì hoàn toàn là một khách lạ đối với ngài Sakya Muni. Em xin đoan chắc một điều, nếu Sakya Muni tái sinh ở thế kỷ 21 này, thì chắc chắn ngài sẽ vô cùng kinh ngạc! Những nơi mà được gọi là cơ sở tôn giáo Phật giáo, tất nhiên là của chính bản thân mình (Sakya Muni), nay lại có những vị tên tuổi vô cùng xa lạ như: Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Quán Âm Tự Tại, Địa Tạng Vương Bồ Tát….Ngài Sakya Muni tái sinh, chỉ còn một cách duy nhất là hỏi thăm các tu sĩ trong một cơ sở Phật giáo nào đó là các vị Phật, các vị Bồ Tát nói trên… là ai!

Quí độc giả có thể tham khảo những tài liệu về kinh ngụy tạo Phật giáo và tất nhiên là các hệ phái ngụy tạo Phật giáo trong tài liệu “ Kinh ngụy tạo” ( Apocrypha). Tác giả: Kyoto Tokuno.Ph.D.  Dịch sang tiếng Việt : Phạm Doãn.

Kính thưa quí độc giả Minh Khánh!

Em cho là cái đáng quan tâm nhất đó là hệ quả của việc tu tập theo những giáo trình “ Háng nhái”. Quí độc giả cũng như em, nếu chúng ta bỏ cả một cuộc đời học tập theo một giáo trình “dỏm” thì hệ quả sẽ ra sao? Nếu chúng ta hiểu được rằng giáo trình Phật giáo chính gốc có thể giúp con người thoát qua bể khổ bến mê, thì việc này chúng ta hoàn toàn có thể tự làm được một mình, “ Tự thắp đuốc mà đi” … Nay Tịnh Độ của trường phái Đại Sư Tuệ Viễn Trung Quốc, thì cách tu tập lại hoàn toàn khác hẳn, ông giới thiệu cho nhân loại một vị Phật mới tên là A Di Đà. Vị Phật này  đưa ra tới mấy chục câu mà nội dung nói chung là có thể giúp đỡ cho bất cứ ai. Điều đáng sợ nhất là giúp đỡ vô điều kiện; nói một cách khác là bất chấp nhân - quả, cứ đọc tên vị Phật này liên tục ở những giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, thì có thể đến vương quốc do ngài quản lý. Em cho là cách nhập cảnh bất chấp quá trình dân sự và hình sự, thì có lẽ ngược lại với quan điểm nhân quả của Phật giáo. Thật vậy, một xã hội mà có quá nhiều thành phần phức tạp thì liệu có thể là một xã hội an ninh, thịnh vượng hay không?

Cuối cùng em xin cám ơn quí độc giả Minh Khánh!

Em xin trân trọng kính chào và hy vọng sẽ được gặp lại quý vị trong những dịp khác.


Sao Mai.

2 comments:

  1. Mình có một số vấn đề muốn hỏi bạn....
    1/ Phật Thích Ca là một người cụ túc trí tuệ và trang nghiêm. Ngài có đủ 32 tường tốt, 80 nét đẹp (Phật giáo Nam Tông cũng công nhận điều này) thì tại sao ngài lại không dạy cho các vị A la hán cách để tu chứng đến quả vị cụ túc trí huệ và trang nghiêm như ngài? Ngài không còn các lậu hoặc, lời nói, cử chỉ đều đoan chánh, nhưng các vị A la hán thì không như vậy, vẫn còn tập khí từ đời trước; ngài Mục Kiền Liên tuy đắc quả A la hán nhưng còn tập sân hận... vậy, chẳng lẻ ngài đức Thích Tôn mắc lỗi nhỏ nhen, ích kỷ hay sao?
    2/ Nếu pháp môn Tịnh Độ ko phải do ngài thuyết thì làm sao có rất nhiều người được vãng sanh, chẳng lẻ tất cả đều lạc vào cảnh ma hay sao?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Si nhi.về đọc thêm sách đi. Hỏi 1 điều hư cấu vậy ai mà trả lời cho được

      Delete